Thông tin

SCHUMACHER VÀ TUYÊN NGÔN KINH TẾ PHẬT GIÁO

 

QUÁN NHƯ PHẠM VĂN MINH [1]

 

Có nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe nói tới Kinh Tế Phật giáo. Kinh tế tự túc của nhà chùa nhiều lắm chỉ là mấy mẫu ruộng cho tá điền thuê để tìm thêm chút lợi tức eo hẹp. Cho tới nay hầu như phần lớn các chùa sống nhờ vào sự hỷ cúng. Trên bình diện quốc gia, các nước theo Phật giáo như ba nước Đông Dương, Miến Điện, Tích Lan đều là những nước đang hoặc kém phát triển, theo như sự phân loại của WTO. Kinh Tế Thái Lan phát triển vượt bực gần đây và xã hội tiêu thụ đã làm văn hóa đạo đức của nước này tan rã một cách thảm hại, hiện tượng mà cư sĩ lãnh đạo phong trào nhập thế ở Thái, Sulak Sivaraksa, gọi là từ Hoa Sen đến Bàn Tay của Quỷ. Tuy trên giấy tờ, GDP của Thái tăng trưởng nhanh chóng (GNI US$2,190) nhưng nạn nghèo khó vẫn trầm trọng, hàng trăm ngàn cô gái bán thân nuôi miệng, và những thuyền nhân Việt Nam đã không quên kinh nghiệm hãi hùng khi nhóm hải tặc đối với người như lang sói, mới thấy sự đồi trụy của của văn hoá Thái đến như thế nào. Một số nhà sư, theo truyền thống Thái, vốn là nguồn cỗi đạo hạnh hiện ‘cạnh tranh’ ráo riết để có thêm tín đồ trong các lễ lạc mê tín cầu an, cầu phúc và ‘tăng đức’ của các vị sư Thái xuất hiện qua các xe lộng lẫy mắc tiền nhất. Nhật là nước giàu sang từ sau thế chiến, nhờ đầu tư của Mỹ, và có lẽ nhờ tinh thần quốc gia un đúc từ Thần Đạo, hơn là nhờ Phật giáo. Đại Hàn phát triển được có lẽ nhờ viện trợ Mỹ và trãi qua vài thập niên dưới sự cai trị sắt máu mấy ông tướng độc tài, và có lẽ nhờ tinh thần tranh đua ráo riết với Nhật, đã từng cai trị Đại Hàn với bàn tay sắt máu quân phiệt.

TẠI SAO LẠI ĐẶT VẤN ĐỀ LIÊN HỆ ĐẾN ĐẠO PHẬT VÀ PHÁT TRIỂN?

Nhiều người chỉ nhún vai ngờ vực, mỉa mai là nhà chùa định mở xưởng sản xuất xì dầu hay tương chao để cạnh tranh với các tổ hợp sản xuất thức ăn chay của Đài Loan chăng! Ngay cả trí thức Phật tử cũng tỏ ra lạnh nhạt với vai trò của đạo Phật trong viễn tượng phát triển kinh tế. Trong một bài báo đăng trên Giao Điểm, Cao Huy Thuần nói là vai trò phát triển kinh tế ở các nước Á Châu nếu có, là vai trò của Khổng giáo hơn là Phật giáo. Lòng tự hào về tinh thần quốc gia và truyền thống văn hóa có thể là động lực đánh thức mấy con rồng Á Châu, và Lý Quang Diệu từng dùng ‘giá trị Á Châu’ để biện minh cho những biện pháp cai trị bằng bàn tay sắt bọc nhung ở Singapore. Theo Cao Huy Thuần, Phật giáo chỉ dành cho những người nào biết nghĩ đến mùa màng ngày mai, góp phần làm tươi tốt xã hội hơn là phát triển vật chất. Cao Huy Thuần khuyến cáo nhà chùa không nên dính líu đến chính trị. Nhà chùa chỉ nên tu. Tu được là có tất cả.  Những lời nói hoa mỹ lịch sự này phản ảnh lập trường muốn tách rời vai trò của Phật giáo trong tiến trình chuyển hóa xã hội và là một điều đáng ngạc nhiên, nhất là sau sự dấn thân của Phật giáo Việt Nam vào các năm 1963-1966.

TUYÊN NGÔN KINH TẾ PHẬT GIÁO

Một nhà kinh tế Anh gốc Đức, F. Schumacher, đã nhìn thấy tiềm năng của đạo Phật trong phát triển kinh tế. Tác phẩm Small is Beautiful: A Study of Economics as if People Mattered được Blond & Bridge xuất bản tại London vào năm 1977. Theo ý tôi, đây là Tuyên Ngôn Kinh Tế Phật giáo của người Phật tử, cũng quan trọng như Tuyên Ngôn Cộng Sản của Marx vào thế kỷ trước.Schumacher nhấn mạnh ông không phải là Phật tử và nói rằng tư tưởng của Đức Phật đã có sẵn, nên ông chỉ muốn rút ra một vài nguyên tắc để biện chính cho những nhận xét của ông về trào lưu kinh tế hiện đại. Schumacher sinh ở Đức, qua Anh vào năm 1930 theo chương trình Rhodes Scholar dành cho sinh viên xuất sắc, theo học ngành kinh tế tại New College Oxford. Sau đó ông dạy kinh tế tại đại học Columbia, New York, khi mới có 22 tuổi. Ông cũng đi vào con đường thương mại thực hành, khai thác nông trại và làm phóng viên. Trong thế chiến thứ hai, ông dạy tại Oxford và sau khi chiến tranh kết thúc, ông làm đại diện cố vấn kinh tế của chánh phủ Anh tại…Đức từ năm 1946 đến năm 1950. Ông được nhiều chánh phủ thuộc các nước nghèo mời làm cố vấn về phát triển nông thôn. Ông là chủ tịch Nhóm Phát Triển Kỹ Nghệ Trung Bình mà ông cho là thích hợp với các nước đang mở mang, hơn là chánh sách phát triển kỹ nghệ nặng. Vì thế tựa sách chính là Small is Beautiful và tựa phụ A Study of Economics As If People Mattered, cho thấy mối quan tâm của ông đối với trào lưu kinh tế tân cổ điển hiện thời, chủ trương phát triển chỉ để phát triển. As if People Mattered có thể tạm dịch là kinh tế phát triển với bộ mặt nhân bản. 

- Phát Triển Kinh Tế Và Hoà Bình

Thường nhiều người xem ngòi nổ chiến tranh là sự chênh lệch mức sống giữa các nước giàu và nghèo và nhất là sự tranh dành tài nguyên, trong thời thực dân cổ điển cũng như thời chủ nghĩa đế quốc kinh tế mới. Từ Marx đến Keynes, đến các nhà kinh tế thị trường tân cổ điển hiện nay đều nhìn xã hội, văn hóa tôn giáo …qua góc độ kinh tế, hay nói theo ngôn ngữ quen thuốc, hạ tầng kinh tế sẽ quyết định thượng tầng văn hoá. Các nhà kinh tế xã hội hay thị trường, ngạc nhiên thay, đều có chung niềm tin là, nếu kinh tế phát triển đến mức sung túc, một thiên đường mới sẽ xuất hiện, trong đó không còn cảnh người bốc lột người, ai cũng tử tế và nhân ái với người khác! Các quốc gia sẽ không có động lực gì để gây ra chiến tranh và sẽ có khuynh hướng hợp tác với nhau để xây dựng hoà bình lâu dài. Chúng ta tin rằng chỉ khi nghèo đói quá mức, không có gì để mất thì con người mới quá khích liều mạng, nhưng khi tài sản chất chứa đầy nhà và cần được bảo vệ, con người sẽ trở nên bảo thủ hơn. Nhiều nhà phê bình xã hội chế diễu thế hệ Baby Boomers, sinh sau thế chiến thứ hai, trong các thập niên 60 và 70 hăng hái tham gia phong trào hippies xuống đường chống chiến tranh và các lãnh tụ sinh viên trong cuộc nổi dậy ở Pháp vào năm 1968, hiện trở thành những nhân viên cao cấp trong chánh quyền, những người điều khiển các tổ hợp kinh tế lớn trên thế giới và là những lãnh tụ chánh trị có lập trường càng lúc càng bảo thủ hơn. Từ sau thế chiến hai, nhiều chiến tranh cục bộ đã xảy ra, cho chúng ta thấy giấc mơ ‘phát triền hoà bình’ càng ngày càng xa vời vợi. 

Kinh tế thị trường khuyến khích và cổ vỏ việc tích lũy tài sản cá nhân hoặc quốc gia. Greed is Good Foul is Fair trở thành phương châm hành động. Công bằng là ngu dại và mánh mung là công bằng! Mánh mung hữu ích trong việc tăng thêm quyền lợi cá nhân trong khi công bằng chẳng có ích gì cho ai! Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Như Schumpeter khuyến cáo những ai muốn bước qua ngưỡng cửa kinh tế phải bỏ lại tình nghĩa, đạo đức bên ngoài. Tản Đà ví cuộc đời như canh bạc, nên chúng ta càng sát phạt nhau chừng nào tốt chừng đó. Tôn giáo và đạo đức chỉ làm kỳ đà cản mũi, ngăn trở sự phát triển kinh tế, chớ chẳng có ích lợi gì!

Có điều là lòng tham thường không đáy, ít ai biết tri túc hay thiểu dục, hay quyết liệt hơn, diệt dục như trong đạo lý Nho hay Phật. Thoạt nhìn kinh tế Phật giáo là cụm từ gượng ép và lạc điệu. Không một cá nhân hay một quốc gia nào chịu nói ‘tài sản của tôi đủ rồi’ vì không phải ai cũng có định nghĩa về tri túc tiện túc như Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên nếu chịu khó kiên nhẫn một chút, việc chọn Phật Giáo để định tính kinh tế của Schumacher không phải là không có lý do. 

- Khai Thác Tài Nguyên

Muốn phát triển thì cần phải có nhiên liệu để sản xuất, nhưng không ai chịu đặt câu hỏi là liệu nguồn tài nguyên cuà trái đất có vô tận không?

Ngay từ thập niên 60, Schumacher đã nhìn thấy nguy cơ các quốc gia nuôi dưỡng một lối sống xa hoa ích kỷ nên đã khai thác tài nguyên một cách phung phí. Theo thống kê mà Schmacher dẫn ra, vào năm 1966 các nước giàu tiêu dùng 87% nhiên liệu trong khi dân số của họ chỉ chiếm 31%. Dân số các nước nghèo chiếm 69% nhưng mức tiêu thụ năng lượng chỉ có 13%. Năm 2005, trong tác phẩm Half Gone, Jeremy Leggett, nhà khoa học đầu đàn của tổ chức Greenpeace Anh Quốc đã báo động rằng thế giới tiêu thụ 80 triệu thùng dầu mỗi ngày. Riêng Mỹ mỗi ngày tiêu thụ 20 triệu thùng, tức là một phần tư tổng số dầu sản xuất. Nếu ước tính theo mức tiêu thụ này thì vào năm 2025, mức tiêu thụ mỗi ngày của thế giới là 120 triệu thùng hay 43 tỷ thùng mỗi năm. Hậu quả là không có chánh khách Mỹ nào, Cộng Hoà hay Dân Chủ, không lăm le can thiệp bằng cách này hay cách khác vào Trung Đông. Ngay cả cựu tổng thống Carter, người được giải Nobel Hoà Bình, tuyên bố vào năm 1980 là việc thông thương vào vùng vịnh là vấn đề sinh tử của Mỹ và để bảo vệ quyền lợi này, Mỹ có thể dùng bất cứ phương tiện nào, kể cả võ lực. Khi cần bảo vệ quyền lợi của Mỹ, Carter và Bush chẳng khác gì nhau. Năm 2006, trong diễn văn hàng năm trước lưỡng việc quốc hội , TT Bush thú nhận là dân Mỹ nghiện ‘dầu’ và Bush muốn giảm số dầu nhập cảng vào năm 2025 xuống còn 75%. Ngay ngày hôm sau Bộ Trưởng Bộ Năng Lượng Mỹ cải chánh, đây không phải là lời hứa của TT Bush mà chỉ là ‘ước mơ’.

- Lao Động

Một yếu tố quan trọng nữa để sản xuất là lao động. Các nhà sản xuất xem lao động như là một ‘chi phí sản xuất’, không có không được, nhưng để giảm giá thành, họ tìm cách trả lương nhân công càng rẻ càng tốt. Để giảm chi phí và tăng hiệu năng, nhân công phải làm việc theo phương pháp dây chuyển, hay nếu sáng chế được robots tự động thì càng tốt. Robots làm việc không biết mệt, miễn là được bảo quản kỹ lưỡng, không biết đòi tăng lương, không tổ chức nghiệp đoàn để đình công. Các tổ hợp thương mại hiện dời các xí nghiệp qua các nước đang phát triển hay outsourcing để dùng công nhân rẻ, qua trung gian và toa rập của các ban quản lý công nhân địa phương để tha hồ bóc lột công nhân trong các sweatshops mà không phải bận tâm về luật lao động địa phương. Trường hợp hãng giày Nike đã trả công nhân tại các quốc gia như Indonesia, Nam Mỹ và Việt Nam với giá chết đói, vì các cán bộ phụ trách lao động địa phương ngậm miệng ăn tiền, các tổ chức lao động thế giới phải lên tiếng tranh đấu dùm. Ngay cả gần đây (2005) công nhân Việt Nam làm việc tại các xí nghịệp vốn nước ngoài (FDI) than phiền là tuy mang tiếng làm việc cho các xí nghiệp ngoại quốc, lương tối thiểu công nhân tại các xí nghiệp này còn thua lợi tức của một người bán vé số lẻ! Không những thế các chánh phủ địa phương còn phải cám ơn các xí nghiệp FDI rối rít vì đã giúp chánh phủ giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho một số công nhân. Đó không phải là chuyện chỉ xảy ra ở nước nghèo. Chánh phủ Úc tài trợ hàng trăm triệu để o bế các hãng sản xuất xe hơi để họ đừng đóng cửa và trong nhiều năm qua đã tài trợ cho hãng sản xuất phim Kodak nếu hãng này đừng dời cơ sở sản xuất sang các nước khác. Các xí nghiệp này luôn miệng dọa là nếu chánh phủ không ‘biết điều’, họ sẽ dời nhà máy về một quốc gia khác có công nhân rẻ hơn.

Ngược lại nhiều người xem làm việc như là một gánh nặng chẳng đặng đừng, xem lương bỗng là hình thức bù trừ cho chuyện hy sinh không có thì giờ nghỉ ngơi.

Quan niệm về lao động kiểu này của chủ nhân và công nhân có hệ quả quan trọng hơn chúng ta nghĩ. Công nhân xem làm việc như là một cực hình, chủ nhân xem lao động như là phí tổn sản xuất. Một đàng muốn làm việc càng ít càng tốt. Đàng kia muốn tăng hiệu năng để thâu dụng số nhân công càng ít càng tốt.

Trong khi đó các nhà sư Đại Thừa tuyên bố ‘bất tác bất thực’. Bổ củi, xách nước, thiền tập, rửa bát là những phương tiện giúp các thiền sinh thực tập chánh niệm. Nếu phải làm việc để mưu sinh, nên xem làm việc là phương thức phát triển kỹ năng và nhân cách, để giúp cá nhân học tập tinh thần đồng đội mà Phật giáo gọi là Lục Hòa.

Dĩ nhiên lao động tạo ra những sản phẩm tiêu dùng cần thiết và lương bỗng để chi dùng. Chủ nhân chỉ nhắm tới lời lỗ khi thu dụng công nhân, chia công việc manh mún làm mất cả ý nghĩa lao động và nếu cần đuổi thì cứ đuổi, không tình nghĩa gì cả. Công nhân xem việc làm như là một gánh nặng, muốn làm chơi ăn thiệt, thay vì xem làm việc là một quá trình hình thành nhân cách và tạo ý nghĩa cho đời sống. Đạo Phật xem làm việc-nghỉ ngơi, lao đông và giải trí là một quá trình không thể thiếu của đời sống, có ăn-có làm-có chơi. Lao động và ý nghĩa đời người có mối liên hệ khắn khít hơn là phương tiện kiếm tiền sinh sống hay chỉ là chi phí cần giảm thiểu tới mức tối đa. 

Việc làm phát triển khả năng sáng tạo và khả năng này là thức ăn cần thiết cho tâm linh, như thực phẩm cần thiết cho sự duy trì khả năng hoạt động của cơ thể. Những người không có việc, hay trốn tránh không chịu làm việc, ngoài chuyện không có lợi tức còn bị một thiệt thòi lớn khác là không có thức ăn cần thiết cho tinh thần.

Để sống một cuộc đời phát triển trọn vẹn thể xác-tâm linh, Phật giáo muốn thực hiện một nền kinh tế trong đó những người nào muốn làm việc sẽ có việc làm. Nhiều người nghĩ mô thức kinh tế này chỉ là điều mơ ước viễn vông, nhất là khi các nhà kinh tế tư bản thị trường cho rằng tỷ lệ thất nghiệp ‘lý tưởng’ là từ 2% đến 5%. Các nhà kinh tế tân- cổ điển chú trọng nhiều đến lạm phát chớ không chú tâm giải quyết nạn thất nghiệp, nhất là thất nghiệp ở các nước đang hay chậm phát triển. Họ lý luận rất đơn giản: lạm phát làm giảm mức đầu tư, và nếu không đầu tư thì kinh tế không phát triển. Nếu kinh tế không phát triển thì nạn thất nghiệp lại tăng. Luật cung cầu mà! Trong lịch sử kinh tế tư bản, người ta thấy giữa lạm phát và thất nghiệp tỳ lệ nghịch với nhau. Tuy nhiên đối với những người bình thường, lạm phát ảnh hưởng đến tất cả mọi người, và giàu chừng nào càng bị thiệt hại nhiều chừng đó, trong khi thất nghiệp chỉ ảnh hưởng đến công nhân và gia đình họ. Điều này cũng hợp với logic của kinh tế thị trường. Ai cũng lo cho tư lợi của mình, tư bản thì lo bảo vệ người giàu, quan tâm làm gì đến công nhân thất nghiệp! Tuy nhiên ai cũng biết bần cùng sinh đạo tặc, tại các quốc gia Bắc- Tây Âu, ngay cả ở Mỹ sau thế chiến thứ hai, chế độ an sinh xã hội được thiết lập để giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Để giữ mức quân bình hệ thống, nhà kinh tế J.K. Galbraith trong The Effluent Society nói mạng lưới an toàn là cách đền bù những người thất nghiệp để họ có thể hưởng được những thành quả của tăng trưởng kinh tế. Kinh tế an sinh là biện pháp bảo vệ xã hội tư bản của các nhà chính trị thực tiển. Đó là sự khác biệt giữa Marx và Keynes. Công bình xã hội đối với Marx là lý tưởng sống trong khi kinh tế an sinh là một biện pháp để giữ quân bình và an ninh xã hội. Nếu trong các nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn những chuyện bất công, vẫn còn một giái cấp mới ‘ăn không hết; trong khi phần lớn dân chúng ‘mò không ra’ vì nhà cầm quyền thực hiện lệch lạc lý tưởng mác-xít, không thể đổ lỗi cho Marx! Vì chỉ chú trọng động lực tư lợi, con người bị thu hẹp thành con người kinh tế, lúc nhúc dành ăn như đàn ngạ quỷ. Những nguyên tắc như đồng sự, lợi hành của Phật giáo như một cung đàn lạc điệu.

- Tăng Trưởng Kinh Tế và Công Ích Xã Hội 

Kinh tế càng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân cũng như xã hội và trở thành mối quan tâm hàng đầu của cá nhân cũng như của chánh quyền khắp mọi nơi. Làm thế nào để cá nhân có được một đời sống đầy đủ về vật chất, và trên bình diện quốc gia, làm thế nào tăng GDP để nuôi dân chúng, và nếu có thể, theo kịp mức sống các nước tân tiến, trở thành một ám ảnh ưu tiên. Hành vi của cá nhân hay chánh quyền đều được đo theo tiêu chuẩn kinh tế hay phi kinh tế. Hành vi kinh tế là những hành vi đem đến lợi lộc và hành vi phi kinh tế là hành vi làm thiệt hại đến tư lợi. Lời hay lỗ trở thành thước đo giá trị tuyệt đối. Những gì hợp với tiêu chuẩn kinh tế thì được chấp nhận, cổ võ trong khi hành động phi-kinh tế đều phải gạt bỏ ra ngoài và bị chê là ‘bất hợp lý’ vì ngăn cản tăng trưởng và tiến bộ. Các nhà kinh tế thị trường nhìn văn hóa, xã hội, tôn giáo qua góc độ kinh tế. Không những thế các nhà kinh tế thị trường còn biến kinh tế thành một thứ nguỵ-khoa học (speudo science), hợp lý và tất định. Ai lý luận ngược lại khoa kinh tế hợp lý và tất định, nếu không phải là những nhà triết lý- tôn giáo không tưởng, những người cản trở tiến bộ của nhân loại, nếu không muốn nói là những người mắc bệnh tâm thần. Nói như nhà xã hội học Pháp, Pierre Bourdieu, kinh tế tân cổ điển đã trở thành nhà Độc Tài của Thị Trường.  

Mỗi nhà kinh tế tân cổ điển đưa ra các mô thức kinh tế khác nhau mà họ nghĩ có thể làm tăng trưởng kinh tế trong thời gian ngắn nhất, biểu hiện qua vòng cung hiệu năng tối đa Perato. Đối với họ, kinh tế là một ‘khoa học’, nếu không ngang hàng với Vật Lý, ít ra cũng ngang hàng với khoa sinh học tiến hóa của Darwin. Một đội ngũ chuyên viên kinh tế có tinh thần khoa học được đào tạo trong các đại học qua nhiều thế hệ đã trở thành đội ngũ không thể thiếu được trong việc điều khiển guồng máy kinh tế.

 Thoạt tiên, các quản trị viên CEO còn làm việc với các nhà chính trị và chủ nhân các tổ hợp xí nghiệp lớn, nhưng trong các năm gần đây, quyền quyết định của các nhà chính trị hay chánh phủ càng bị giới hạn. WTO có thể kiện một chánh phủ nếu họ thấy luật lệ của một quốc gia nào đó có thể làm ngăn cản ‘tự do mậu dịch’ và thiệt hại đến quyền lợi của các tổ hợp. Vào cuối năm 2000 chánh phủ tiểu bang NSW ở Úc ký một hợp đồng ‘phát triển’ với công ty khai thác hệ thống đường ngầm ở Sydney. Trong hợp đồng có một điều khoản cấm bộ giao thông tiểu bang NSW mở thêm các đường lân cận, nếu các tổ hợp thấy các việc cải thiện này có thể giảm số lượng xe dùng các đường ngầm. Dân chúng còn nghi ngờ là hệ thống đèn giao thông được sửa đổi để làm tăng nạn kẹt xe, khiến tài xế hết kiên nhẫn và do đó buộc lòng phải dùng đường ngầm cho xong chuyện. Một nhân viên CEO của tổ hợp phát triển các trung tâm thương mại Westfield ở Úc đã công khai mắng mỏ một Dân Biểu trong buổi điều trần tình trước Quốc Hội Tiểu Bang. Sự kiện này được loan truyền trên các đài truyền hình tiểu bang. Úc là một cường quốc trung bình, có mô thức dân chủ có thể nói là tốt nhất thế giới, tức hệ thống Westminster. Nói chi đến những nước nghèo lở mang nợ IMF hay WTO. Chánh phủ Zambia báo cáo là vào tháng 2 năm 2004, chánh phủ không thể thuê 9 ngàn giáo viên nhằm thoả mãn nhu cầu giáo dục cần thiết, không phải vì không đủ ngân sách, mà vì IMF và World Bank đặt giới hạn tổng số tiền chánh phủ Zambia có thể dùng vào ngân sách trả lương của công nhân viên. Ngăn chặn việc tuyển dụng giáo chức của một nước nghèo Phi Châu là một quyết định phi lý và điên rồ, nếu chánh phủ Zambia không phản đối công khai trên tờ Post xuất bản tại thủ đô Lusaka thì ai tin nổi chuyện này có thể xảy ra?! Có thể nói các tổ hợp quốc tế lũng đoạn chương trình phát triển xã hội của tất cả các quốc gia trên mọi tầm mức, giàu cũng như nghèo. Trong khi các nước phát triển có khả năng chống lại những mệnh lệnh của IMF, các nước nghèo thường phài riu ríu nghe theo những điều kiện dưới các tên mỹ miều là Structural Adjustment loans về kinh tế vĩ mô (Macro-economics) liên hệ đến chánh sách tài chánh, quân bình cán cân thu chi và kiểm soát lạm phát. Hiện tại cán cân ngân sách của Mỹ thầm thủng hàng trăm tỷ, nhưng chánh phủ Bush xem các lời cảnh cáo của IMF coi như ‘dê kêu’, không thèm để ý tới. Nhà nghiên cứu kinh tế Anh Noreena Hertz gọi đây là cuộc đảo chánh im lặng, trong đó quyền lo cho an sinh và công ích của chánh quyền địa phương bị toà án thương mại quốc tế giới hạn. Hertz cho cuốc ‘đảo chánh’ này là một đe dọa cho dân chủ, vì các chánh quyền ít nữa cũng do dân chúng bầu ra và chịu trách nhiệm cung cấp tiện nghi công ích cho dân chúng, trong khi các CEO không được ai bầu ra và chỉ chịu trách nhiệm với những người không có mặt mũi, tức là các ‘cổ phần viên’. Pierre Boudieu kêu gọi thành lập một phong trào ‘xã hội Âu Châu’ để dành lại dân chủ từ trong tay nhón ‘kỹ thuật viên’ , các ‘chuyên viên’ trong các tổ chức quốc tế như World Bank hay IMF, áp đặt mà không cần thảo luận những phán quyết độc đoán dựa trên chủ nghĩa kinh tế ‘hợp lý’. (Boudieu, tr 26) 

- Nạn Nghèo Khó

Giả sử các mô thức này thực sự làm kinh tế tăng trưởng, nhưng không có mấy nhà kinh tế chịu khó hỏi câu kế tiếp đó là ai là người thực sự được hưởng thành quả của phát triển kinh tế? Việc phân chia tài sản quốc gia dựa trên công thức nào? 

Những người cổ võ kinh tế thị trường cứ lập đi lập lại khẩu hiệu tự do mậu dịch sẽ làm giảm mức nghèo khó ở các nước đang phát triển. TT Bush chỉ trích là những người biểu tình phản đối tự do mậu dịch không phải là ‘bạn của người nghèo’. Họ nói những quốc gia nào chấp nhận toàn cầu hóa đã tăng trưởng kinh tế và giảm mức nghèo đói. Không ai phủ nhận là hai cường quốc đang lên, Trung Quốc và Ấn Độ trong 20 năm tới sẽ là cường quốc kinh tế trong số 10 quốc gia đầu đàn, và đã giảm mức nghèo khó của những người cùng đinh sống bằng lợi tức 1 hay 2 đô la mỗi ngày.

Tuy nhiên đa số dân chúng trong các nước đang phát triển hay chậm phát triển khác, giấc mộng không còn người nghèo nữa chỉ là giấc mộng. Sau những cuộc biểu tình bạo động chống WTO ở Seattle, Genoa, Cancun, Tổng Thống Pháp Chirac thú nhận cơn sóng thần Toàn Cầu Hóa không làm cho đời sống dân ở các nước ngoài sáng sủa hơn. Joseph Stiglitz cũng thú nhận là, qua kinh nghiệm của một kinh tế trưởng của World Bank, số lượng những người có lợi tức US$1 mỗi ngày tăng lên chớ không giảm.Trong thập niên cuối của thế lỷ 20, số lượng những người có lợi tức US$1 mỗi ngày tăng lên 100 triệu (Stiglitz tr. 5). Nếu những nhận định này do một trí thức ‘thiên tả’ nói người ta còn đặt dấu hỏi ở cuối. Nhưng đây là lời phê bình của Stiglitz, người được cấp giải Nobel kinh tế 2001, những người cổ võ cho kinh tế toàn cầu hoá chỉ còn có nuớc cười ruồi, chịu trận. Chúng tôi sẽ trở lại Stiglitz với đầy đủ chi tiết hơn qua hai tác phẩm Globalisation and its DiscontentThe Rebel Within sau. 

Trung Quốc và Mã Lai cũng là hai mô thức đáng lưu ý và đáng học hỏi. Chánh quyền của cả hai đều đã đã giới hạn chặt chẽ những đầu tư trực tiếp và kiểm soát lưu lượng ngoại thương qua mức quotas cần thiết để bảo vệ kỹ nghệ sơ sinh nội địa. Trên thực tế, tổ chức Heritage Foundation, cơ quan ‘cò mồi’ lớn tiếng cổ động cho Tư Do Mậu Dịch thế giới, đã phê điểm Trung Quốc rất thấp theo thang điểm ‘cởi mở thương mại’. Dani Rodrik, kinh tế gia đại học Harvard vạch rõ là quốc gia đang phát triển nào dám ‘giới hạn’ mức nhập cảng là quốc gia khá nhất trong thập niên 1990. Trung Quốc trong bao nhiêu năm qua đã cưỡng lại áp lực của Mỹ bắt phải tăng giá đồng Yuan, nhưng các nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tỉnh bơ, cho tới gần đây mới thả nổi chút ít! Kết quả là suốt 25 năm, kinh tế Trung Quốc đã phát triển liên tục ở mức 9%, mặc dù vẫn kiểm soát những thành phần có tiềm năng gây rối loạn chính trị như giáo phái tạp nhạp Pháp Luân Công. Thấy mở được thì mở, thấy cần đóng thì đóng, miễn là bảo vệ được quyền lợi của quốc gia và nhất là cho công ích xã hội, dù phải chạm trán với WTO hay IMF. Thế mà Trung Quốc vẫn chưa giải quyết nổi nạn nghèo khó, nói chi là chấp nhận ‘hội nhập’ với một mô thức sống chết mặc bây như mô thức Tư Bản Mỹ.

Mã Lai cũng áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ không chịu thả nổi tiền tệ như WTO áp lực, nhờ đó đã duy trì mức phát triển quốc gia và đã tránh được cuộc khủng hoảng vào các năm 1997 đã khiến cho các nước nhắm mắt theo kinh tế thị trường như Thái Lan sống dở chết dở. Trong khi đó, các quốc gia phát triển như Mỹ và Âu Châu đã hí hửng khi kinh tế tăng trưởng chừng 4%. Ai có thể dạy ai về các mô thức phát triển kinh tế đây? Nhiều nhà phê bình kinh tế chế nhạo chế độ ‘tự do mậu dịch’ vừa chẳng tự do vừa chẳng công bằng và trọng tâm của WTO nên chuyển từ Free Trade sang Fair Trade . Trong các hội nghị các bộ trưởng Thương mại, từ Uruguay, Doha đến Cancun, Mỹ và Âu Châu cứ hẹn lần hẹn lửa không chịu tìm giải pháp cho nghị trình phát triển và giải quyết việc hạn chế thị trường nông phẩm của Mỹ và Âu Châu để cho các nước nghèo Nam Mỹ chen chân vào. Trong khi đó Mỹ và Âu Châu đua nhau tài trợ ngân khoản vĩ đại cho nông gia và các tổ hợp nông phẩm, khiến cho sản phẩm thặng dư trên thị trường. Cuối cùng Mỹ và Âu Châu đành...hòa hoãn và thoả thuận riêng bằng hiệp ước song phương Blair House vào năm 1992.

Các nước nghèo hí hửng từ phiên họp các bộ trưởng tài chánh Uruguay, tưởng là các nước phát triển sẽ cho mình chen chân vào thị trường nông phẩm, nhưng mãi đến phiên họp ở Cancun đâu lại vào đấy. Các hàng hóa ‘bán tháo bán đỏ’ của các nước OECD vẫn được hợp thức hóa, trong khi Mỹ dùng chế độ kiểm dịch để hạn chế hàng nông phẩm của các nước khác như mới vừa đây ‘kiện thưa’ chánh phủ Việt Nam bán tháo bán đổ tôm vào thị trường Mỹ và dùng kiểm dịch để làm kho làm dễ cá Ba-Sa ở Mỹ và Úc vừa rồi. Mỹ cũng đã trợ cấp nông gia trồng bông vải khiên các nộng gia Phi Châu không cạnh tranh nổi và phải bỏ nông trại, về thành phố sống vất va vất vưởng. Và lời khuyên của chánh phủ Mỹ cho những nông gia trong khối các quốc gia kém phát triển nhất (LDC): Sorry, quý vị nên trồng nông phẩm khác!

Xuất cảng được nhiều nông phẩm không có nghĩa là đời sống nông dân dễ thở hơn. Ví dụ như số lượng xuất cảng gạo Jasmin của Thái Lan chiếm 35% tổng số gạo xuất cảng trên thị trường thế giới. Thái Lan còn xuất cảng cao su, đường nhưng theo thống kê, 40% nông dân Thái sống chật vật. Tổ chức FAO ước đoán là có từ 20 đến 30% nông dân Thái thiếu dinh dưỡng. 

Ngay cả ở các nước tiên tiến kỹ nghệ Tây Phương trong 2 thập niên của kinh tế toàn cầu, tỷ lệ người nghèo không những không giảm mà còn tăng thêm. Tình cảnh dân da đen ở New Orleans cho thấy bộ mặt thật của nước Mỹ. Đàng sau lợi tức hàng tỷ của các tổ hợp thương mại, đàng sau con số lợi tức mỗi đầu người trên thống kê, hàng triệu người da đen sống nghèo khổ như dân chúng trong các nước thứ ba. Trong đám tang của bà Coretta Scott, phu nhân của Martin Luther King, được cử hành vào ngày 7/2/2006, có sự tham dự của TT Bush, và các Tổng Thống tiền nhiệm như Bush cha, Carter và Clinton. Carter, người được giải Nobel hòa bình, đã chua chát nhận xét: ‘Chúng ta chỉ cần nhớ lại mầu da của các khuôn mặt nạn nhân của trận bão Katrina ở các vùng Louisana, Alabama và Mississipi, chúng ta có thể nhận ra rằng không phải tất cả dân Mỹ đều hưởng được cơ hội đồng đều’ (SMH 9/2/06). TT Bush không có lý do gì để ‘lên lớp’ các quốc gia khác về nghèo khổ: nếu một nước giàu có như Mỹ, có GDP tính theo đầu người cao nhất (US$37,870 theo dữ kiện mới nhất của World Bank vào năm 2005), mà vẫn có những người da đen nghèo như ở New Orleans, Mỹ không có lý do gì để khoa trương về khả năng giảm nghèo đói của tự do mậu dịch. Điều nghịch lý là những người cổ động giảm nghèo đói không phải là chánh phủ các nước tiên tiến, mà là các nhân vật nổi tiếng khác. Sir Geldof và Bill Gates là hai trong số các người tổ chức đại nhạc hội yêu cầu các quốc gia G8 xóa nợ cho các nước Phi Châu. Các cường quốc này hứa sẽ xóa sổ nợ, nhưng tới nay phần lớn vẫn còn dậm chân tại chỗ.

- Giá Trị Kinh Tế và Giá Trị Xã Hội

Các lý thuyết gia kinh tế tân- cổ điển cho rằng hai động cơ đưa đến quyết định chọn lựa là ‘hợp lý’ và ‘tăng tư lợi tối đa’. Kinh tế chỉ để ý đến ‘giá trị thi trường’ mà không để ý đến những giá trị phi-kinh tế, như giá trị xã hội và đạo đức. Người mua chỉ muốn mua rẻ, người bán muốn bán giá cao để có lời nhiều. Ai cũng chỉ lo bảo vệ tư lợi của mình, không ai hơi đâu lo đến quyền lợi kẻ khác. Đối với các nhà kinh tế thị trường, những châm ngôn như ‘một người vì mọi người’ vừa sáo, vừa không thực tế và ‘phi-kinh tế’. Không thương gia nào hạ giá cho khách hàng chỉ vì họ nghèo quá không đủ tiền mua. Những ai có tinh thần quốc gia muốn mua sản phẩm lô-can dù với giá mắc hơn hàng ngoại, sẽ bị phê phán là quốc gia…cực đoan,không chịu ‘hội nhập’ trong thời đại toàn cầu. Cái gì hội nhập cái gì, hội nhập ra sao, ai sẽ có lợi…Hội nhập trở thành đại thần chú thời đại, ai cũng la hét như những người bị quỷ ám. Những khách hàng nào không chịu mua những sản phẩm do cưỡng bách lao động, do công nhân là những tù nhân hay lao động trẻ em sẽ bị chê bai là .. quân tử Tầu, thiếu thực tế, cái gì tốt mà rẻ thì cứ mua, băn khoăn làm gì. Ngoài bản thân, không ai chịu trách nhiệm cho ai. Mọi hoạt động kinh tế đều dựa trên yếu tố lời lỗ, tình nghĩa đều là phi-kinh tế. Homo economicus chỉ còn là đám ngạ quỷ tranh nhau ăn, tranh nhau tích lũy của cải, quốc gia tranh nhau tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, kể cả cái giá mắc nhất là làm sâu rộng thêm cái hố ngăn cách giữa người giàu và nghèo. Con người kinh tế cả đời chỉ ‘trầm tư bách kế’ để bảo vệ tư lợi. Kinh tế thị trường mà, tham lam là điều tốt, mánh mung là chuyện dĩ nhiên. Có thực sự chúng ta muốn tăng trưởng để tạo ra một xã hội đầy ngạ quỹ như thế?

Các nhà kinh tế tân- cổ điển cũng luôn nhấn mạnh đến yếu tố phi-giá trị, khoa học và tất nhiên của khoa kinh tế. Tự do mậu dịch là một điều không thể tránh được. Như trái táo rụng thì rơi xuống đất, không bay bỗng lên trời bao giờ! Nhưng bất cứ lý thuyết hay mô thức nào cũng đều dựa trên những giả định, lòng tin mà Schumacher gọi là nền tảng siêu hình kinh tế. Đó là giả định về bản tính thiên nhiên của con người và hướng đi, hay biện chứng tiến bộ lịch sử.

Trong truyền thống Đông Phương, Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho con người ‘tính bản thiện’, ‘tính tương cận, tập tương viễn’, ‘bất nhẫn chi tâm’. Đạo Phật chủ trương mọi loài đều có Phật tính - chỉ cần trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Chủng tử thiện hay ác đều có trong chúng ta và nhờ quá trình tu tập, Phật tử có thể loại bỏ dần dần chủng tử bất thiện, tưới tẩm chủng tử từ và bi, và một ngày đẹp trời nào đó, mây bay đi và ‘tuệ nhật tự chiếu’. Những lời Phật hay các hiền giả đông tây trong lịch sử đều…phi kinh tế!

Các nhà kinh tế hay triết lý Tây Phương cũng có những giả định tiểm ẩn như các hiền giả Tây Phương. Marx có những giả định về sự tiến bộ tất yếu của lịch sử: nhân loại kết thúc ở xã hội đại đồng Cộng sản, trong đó không còn chuyện người bóc lột người, không còn cảnh dành nhau miếng cơm manh áo, mọi người làm việc theo khả năng, hưởng thụ theo nhu cầu. Giấc mơ của Marx tương tự thời đại hoàng kim của thời huyền sử Nghiêu Thuấn. Các nhà kinh tế tư bản thị trưòng dùng thần học Tin Lành để giải thích tại sao con người cần được cứu chuộc qua việc tích lũy tài sản. Từ Marx, Weber và các nhà kinh tế thị trường như Keynes, Samuelson đều tin rằng, nếu được hưởng đầy đủ tiện nghi vật chất, con người sẽ hiền lương hơn và thế giới không còn tranh chấp quyền lợi và tranh đoạt tài nguyên nữa. Đó là con đường phát triển đế tiến tới hòa bình. Như Martin Luther King, mỗi hiền giả triết nhân đều có một giác mộng ‘I have a dream’

Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, sử gia văn hóa Mỹ, Francis Fukuyama, phán quyết một câu xanh dờn là, lịch sử con người đã tới hồi kết thúc với mô thức chánh trị dân chủ và kinh tế thị trường! Fukuyama sau đó không kèn không trống viết thêm một cuốn sách khác về tạo sinh vô tính. Bởi lịch sử không thề dừng lại và viễn tượng cloning làm cho tương lai con người càng mịt mùng bất định hơn. Một nhà lịch sử văn hoá khác, Hungtington, nhìn lịch sử hiện nay qua sự chạm trán ngoạn mục giữa các tôn giáo độc thần, xem cuộc chạm trán của các nền văn minh sẽ quyết định tương lai nhân loại.

Lịch sử rồi sẽ kết thúc ở đâu khi các nhóm tôn giáo fundamentalist cho là chỉ có tôn giáo mình nắm bắt được chân lý? Cuộc đời vẫn cứ trôi, lịch sử vẫn tiếp diển, máu vẫn chảy thành sông chỉ vì lòng cuồng tín cho rằng chỉ có mình nắm giữ sự thật.

Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ. Tham vọng chấm dứt lịch sử bằng ý hệ này hay ý hệ khác, bằng thần học này hay thần học khác, chỉ là ảo ảnh của người đi trong sa mạc. Giả định ‘thần học’ của các nhà kinh tế tư bản thị trường thực ra không có ‘tính khoa học’ nhiều hơn hay ít hơn các giả định siêu hình của Khổng Tử hay Đức Phật. Tuy nhiên chỉ có những hiền triết Đông Phương dám nói ‘Thiên hà ngôn tai’ hay ‘Bốn mươi chín năm nay ta có nói lời nào đâu’.

- Khoa Học hay Thần Học

Vì xem rằng kinh tế như một khoa học, các nhà kinh tế tư bản cho rằng tiến trình và hậu quả kinh tế đều tất định, không ai có thể thay đổi hay ngăn cản được. Thảo nào có nhiều người chép miệng than thở ‘kinh tế thị trường mà’ nhưng xem quá trình toàn cầu hóa như là chuyện dĩ nhiên, không thể nào tránh khỏi, không thế nào thay đổi được. Về điểm này, ngay từ năm 1977 Schumacher cho là các nhà kinh tế này bị mắc bệnh ‘mù loà thần học’ không chịu nhìn nhận là, ở phía sau mỗi mô thức hay lý thuyết kinh tế đều có giả định siêu hình, như ẩn dụ mà Gandhi đã dùng trong khi đề cập đến chánh trị. Siêu hình kinh tế cũng giống như con rắn quấn quanh mình chúng ta, muốn tránh cũng không tránh được. Đó cũng là lý do tại sao Schumacher nói Tây Phương có thần học Tìn lành, nên họ có nền kinh tế tư bản. Còn các nước theo Phật giáo, lẽ ra cũng phải có một nền kinh tế tương ứng, lại cứ nhắm mắt chạy theo đại thần chú kinh tế thị trường. Đến đây chúng ta thấy Schumacher đã lội ngược cơn sóng thần toàn cầu hóa trước khi chủ nghĩa Thatcher và Reagan cất cánh. Thông thường thể chế chánh trị được nối kết với mô thức kinh tế: dân chủ- tư bản, xã hội chủ nghĩa-kinh tế chỉ huy. Nhưng khi xét đến lịch sử kinh tế từ Marx đến Keynes, qua Samuelson, ngay cả đến các ông thần kinh tế thị trường ở Đại học Chicago, chúng ta thấy sự liên hệ kinh tế- chánh trị không đơn giản như vậy. Trong 25 năm qua, Trung Quốc vẫn duy trì chế độ Cộng sản và kinh tế của Trung Quốc vẫn liên tục hàng năm từ 9 tới 9.5%, trong khi tăng trưởng kinh tế Mỹ khi trồi khi sụt trên dưới 4%. Như vậy mô thức tăng trưởng không nhất thiết phải là mô thức dân chủ Tây Phương, và nhất là mô thức Mỹ. Mã Lai cũng thi hành một chiến thuật tương tự, và đã duy trì mức tăng trưởng kinh tế mà không bị rơi vào cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu vào năm 1997.

Nhưng điều cần minh định ở đây dù chiến thuật lập đi lập lại khẩu hiệu ‘hội nhập’ của các kinh tế gia thị trường trong và ngoài nước có nhiều lỗ hổng, nhưng về lâu về dài, muốn phát triển kinh tế và chia cái bánh phát triển tương đối đồng đều một cách có thể được, chánh quyền cần thực hiện một ‘xã hội mở’ mà nhà đầu tư George Soros đã kêu gọi các nền kinh tế chuyển tiếp như Việt Nam và Đông Âu. Xã hội mở sẽ đóng góp vào chỉ số an sinh, mức đo hạnh phúc chính xác hơn là con số trừu tượng GNP.

Trên thế giới có nhiều mô thức chánh trị mở để lựa chọn, như hệ thống dân chủ Mỹ, hệ thống Westminster của Anh và Úc, hệ thống dân chủ xã hội như Bắc Âu và Tây Âu. Nếu lấy yếu tố chỉ số an lạc (Well-being) làm tiêu chuẩn, hệ thống dân chủ sống chết mặc bây của Mỹ là hệ thống nên được xếp ở bậc thang cuối cùng. Cứ nhìn hình ảnh ở New Orleans thì rõ. Một quốc gia giàu nhất thế giới mà không lo nổi an sinh cho dân mình sống nghèo khổ như người dân ở các quốc gia thứ ba, không đáng làm mô thức gương mẫu. Hội nhập không có nghĩa tích hiệp vào một hệ thống chính trị và kinh tế mà mãi đến năm 2006, cựu tổng thống Carter phải thú nhận: không phải người Mỹ nào cũng hưởng thành quả của kinh tế thị trường. Tôi nghĩ đến lời Phật dạy trong phẩm Sư Tử Hống khi biết là hiện có một triệu người (sáu con số không!) hiện đang bị giam trong các nhà tù Mỹ: nguyên nhân của những bất an xã hội, như trộm cướp, là vì dân không đủ ăn, không đủ mặc, không được chăm sóc sức khỏe và không được đi học. Trước khi nói cần hội nhập kinh tế thị trường và mô thức dân chủ Tây Phương, chánh phủ nên dành năng lực ưu tiên để thực hiện chỉ số an sinh, thay vì chỉ nhắm đến con số trừu tượng như GNP hay các ý niệm trừu tượng khác. Dù theo mô thức xã hội mở như thế nào, ưu tiên là cần thực hiện được mạng lưới an toàn về giao dục và y tế cho người nghèo.

Khi kinh tế định chế (Institutional economic) được các nhà kinh tế bắt đầu được đề cập, nhiều ý tưởng của Schumacher về đạo đức, văn hóa và tôn giáo bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong phân tích hoạt động kinh tế. Joseph Stiglitz, sau nhiều năm làm việc với World Bank và là cố vấn cao cấp của chánh phủ Clinton, tuyên bố ‘thế kỷ thứ 21 là thế kỷ của ‘kinh tế định chế’. Không phải chỉ có một mình Stiglitz, còn nhiều người đoạt giải Nobel cũng bắt đầu xét lại những giới hạn của kinh tế thị trường. Mối quan tâm của Phật tử về mối liên hệ giữa mô thức kinh tế định chế và tư tưởng tinh yếu của Phật giáo như thuyết duyên khởi, có thể góp phần nghiên cứu trong kinh tế định chế hay không?

- Tàn Phá Sinh Thái

Hoạt động kinh tế liên hệ chặt chẽ với hoạt động của con người trong hoàn cảnh sinh thái, Schumacher đề nghị có hai yếu tố chính cần được nghiên cứu để xây dựng nền tảng siêu hình: con người và sinh thái. Tất cả lý thuyết dự phóng về kinh tế đều phải liên hệ đến hai yếu tố này. Nói khác đi, nghiên cứu kinh tế phải qui chiếu vào ý nghĩa của nhân sinh, nghĩa là một triết lý sống! Vì chỉ chú ý đến thị trường và giá cả, các nhà kinh tế quên rằng đối tượng phục vụ cuối cùng của kinh tế hay bất cứ một ngành nào khác, là con người. People Mattered. Không ai không đồng ý với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng các nhà kinh tế không thể không trả lời câu hỏi ‘phát triển cho ai’? Schumacher dẫn lại lời phê bình của Harrison Brown trong tác phẩm The Challenge of Man’s Future, cho là phát triển kinh tế trong vòng 25 năm qua đã không trả lời bốn vấn nạn căn bản là ảnh hưởng nguy hại lên sinh thái, phẩm chất đời sống trong xã hội kỹ nghệ phát triển, mức tăng trưởng dân số và quá trình đô thị hóa. 

Schumacher phê bình là kinh tế tân cổ điển không những không có đóng góp quan trọng nào để giúp chúng ta hiểu vận hành kinh tế mà còn ngăn cản chúng ta hiểu biết về các vấn đề này, vì đã gạt các câu hỏi trên khỏi lĩnh vực nghiên cứu kinh tế và chỉ chú tâm vào phân tích định lượng và không chịu nhìn thẳng vào ‘bản chất của vấn đề’. Schumacher đã đi trước đồng nghiệp khác trong việc phê phán khuyết điểm của kinh tế tân cổ điển gần 20 năm.

Sự khai thác bừa bãi nhiên liệu đã tạo ra những hậu quả không thể vãn hồi cho sinh thái. Những con sông trong các bài hát lãng mạn bất hủ của Strauss hay mơ mộng của Phạm Duy ‘được chết trong lòng người đẹp Tô Châu hay chết trên dòng sông Danube, những đêm sáng sao’ sẽ sớm thành những hồi niệm: những dòng sông xanh chỉ còn là những con kinh nước đen, lềnh bềnh những chất thãi kỷ nghệ. Chưa kể đến chương trình ngăn đập Ngũ Hồ ở Trung Quốc ngoài việc làm hàng triệu nông dân sống quanh vùng phải di tản, tàn phá bao nhiêu di tích lịch sử. Ngay cả di tích Đôn Hoàng chứa đựng nhiểu di vật khảo cồ Phật giáo cũng chịu chung một số phận. Nhà nước Trong Quốc kiểm soát chặt chẽ thông tin nên không ai biết được là bao nhiêu di tích văn hoá Trung Quốc đã bị thiệt hại. Ngay từ năm 1977 Schumacher đã ‘quán chiếu’ những điều này khi lên tiếng đi ngược lại với cơn sóng thần toàn cầu hóa. Triết lý tăng trưởng vô hạn phải được xét lại trong nhãn quan mới, qua hai câu hỏi căn bản: khả năng cung cấp tài nguyên của địa cầu và sự tổn hại sinh thái gây ra do sự tăng trưởng thiếu kiểm soát.

Các tổ hợp khai thác khai thác các tài nguyên dùng một lần như than đá, dầu, chất đốt, uranium làm như thể những tài nguyên này vô tận. Ngay cả các tài nguyên tái tạo như gỗ cũng bị khai thác tận tình, nhiều khi chỉ để làm gỗ vụn hay tăm xỉa răng. Nhất là Nhật dùng tiền để khai thác gỗ ờ những quốc gia khác như ở Nam Mỹ, Indonesia, Thái Lan, Cambodia và ngay cả Úc, trong khi chánh phủ Nhật cấm ngặt không ai được đụng tới cây cảnh ở nội địa. Đảng Lao Động Úc trong năm 2003 đã thất cử nặng nề vì chủ trương chánh sách bảo vệ rừng, và những người chống đối không ai khác hơn là các công nhân khai thác gỗ, từ trước đến giờ vốn mạnh mẽ ủng hộ đảng Lao Động! Không ai chống chuyện khai thác gỗ, miễn là có chánh sách trồng rừng hợp lý. 

Mối nguy cơ cho bầu khí quyển hiện nay là việc thải chất đốt. Viễn tượng nhiệt độ địa cầu càng ngày càng tăng là mối lo ngại chính yếu. Mặc dù bằng chứng khoa học cho thấy hiện tượng tăng nhiệt độ có thực, hiện vẫn còn hai nước tiên tiến vẫn không chịu ký hiệp định thư Kyoto là Mỹ và Úc. Một mặt chánh phủ Mỹ tiếp tục cho rằng bằng chứng chưa đủ thuyết phục và mặt khác bịt miệng những nhà khoa học nào dám công bố kết quả của các công trình nghiên cứu về khí hậu xác nhận hiện tượng khí quyển tăng nhiệt độ, như trường hợp viên trưởng ban nghiên cứu khí hậu ở cơ quan NASA. Mỹ còn rủ các nước đang có mức tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, là Ấn Độ và Trung Quốc, xé rào hiệp định thư Kyoto và lập thành một khối mới để đối phó với global warming. Các nguyên thủ của các nước này làm như thể khi địa cầu bị tổn hại, khi khí hậu thay đổi bất thường, sinh thái tại quốc gia họ không hề hấn gì!

- Kiểm Soát Nhân Số

Vấn đề đáng quan tâm nữa là nhân số mà Malthus đã cảnh cáo vào thế kỷ trước. Dân số của ‘hành tinh xanh’ hiện nay đã vượt qua con số 6 tỷ. Nhà nhiều miệng ăn thì phải sản xuất nhiều, dùng nguyên liệu nhiều và hủy hoại sinh thái nhiều đến nổi có nhiều giống cây cỏ và thú vật không còn nơi trú ngụ và đến mức tuyệt sản. Thế nhưng có một vài tôn giáo độc thần vẫn nhất quyết không chịu từ bỏ lý thuyết thần học lạc hậu nên không chịu chấp nhận tham gia chương trình kế hoạch hóa gia đình để kiểm soát dân số. Đầu năm 2006 một số giáo hội vẫn tích cực vận động chống ngừa thai, khủng bố những người không đồng ý với mình. Liên minh các tổ chức gọi là Pro-Life của Thiên Chúa giáo tích cực vận động chánh phủ Úc chấm dứt phụ cấp thuốc phá thai RU468, cho thấy thái độ vô trách nhiệm của những thành phần fundamentalists trong các tôn giáo truyền thống Ky Tô. Nhưng không phải chỉ có Ky Tô giáo. Tại hội nghị kiểm soát dân số tổ chức ở Cairo, người ta nhận thấy có sự liên minh của Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo chống các biện pháp kiểm soát dân số. Đây là một liên minh kỳ quặc vì trên bình diện chính trị và quân sự, hai khối này xem nhau như hai kẻ thù không đội trời chung. Trên thực tế tại các nước giàu, dù là những nước có nhiều tín đồ Thiên Chúa như Ý, tỷ lệ sinh sản trở nên trung hòa, nghĩa là mức tử vong và mức sinh sản gần bằng nhau. Tỷ lệ con cái trong mỗi gia đình Tây Phương là 1.5 con/mỗi gia đình. Tại các nuớc nghèo, như Ấn Độ, tại quốc gia mà dân chúng vẫn còn tin theo thần học lỗi thời như Pakistan, tiếp tục sinh năm đẻ bảy và mức tăng gia dân số vượt bực có thể làm nguy hại đến viễn tượng phát triển kinh tế. Cái vòng lẩn quẩn là, người nghèo và ít giáo dục càng có khuynh hướng sinh con nhiều, càng sinh con nhiều thì càng nghèo, điều này rất đúng dù là trên bình diện gia đình hay quốc gia. Hiện Vatican tiếp tục chống các biện pháp kiểm soát sinh sản như ngừa thai nhân tạo và phá thai, cho thấy thần học đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phát triển kinh tế đến mức nào.

- Thành Thị và Nông Thôn

Schumacher viết Small is Beautiful vào năm 1977 trong lúc phong trào toàn cầu hóa mới bắt đầu nên ông rất quan tâm đến vấn đề đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa tạo nên một nền kinh tế song đôi, trong đó lợi tức, lối sống khác nhau như thể dân quê và dân thành phố đang sống ở hai quốc gia khác nhau. Đây không phải đơn thuần là chuyện sống chung giữa hai giới nghèo và giàu. Đây là hai thế giới với văn hóa cách biệt. Tỷ lệ dân thành thị nông thôn có thể lên đến 85/15, ngay cả ở các nước giàu. Sự phát triển đô thị tàn phá cơ cấu kinh tế nông thôn và dân quê phải bắt buộc chọn, hoặc là ở lì lại các vùng quê, không có cơ hội tìm việc làm khả dĩ đủ nuôi sống gia đình, hoặc là chóa mắt với ánh sáng kinh thành, kéo nhau về thành phố kiếm sống. Những lưu dân này dần dần trở nên mất gốc mất rễ, sinh vô gia cư, tử vô địa táng. Họ là những người vô sản đích thực như Marx tiên đoán trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ. Schumacher do đó cổ vỏ cho việc phát triển kỹ nghệ ở mức vừa phải. Ông nói các nước nghèo không nên bước chân theo những lỗi lầm của các nước phát triển kỹ nghệ, hối hả theo đuổi kinh tế thị trường thả ga mà không cần để ý đến những hậu quả tệ hại về mặt xã hội. Gần ba mươi năm sau cơn sóng thần toàn cầu hóa đã khiến cho mô thức kinh tế chú trọng đến con người của Schumacher thành những tiếng kêu lạc lõng. Sự xuất hiện của những tổ hợp đa quốc gia khổng lồ khiến cho ý niệm small is beautiful không giống ai! Với khẩu hiệu Greed is Good Fair is Foul, kinh tế thị trường đã thu hẹp Homo Sapiens thành Homo Economicus, như đàn ngạ quỹ háu ăn, cấu xé nhau vì tiện nghi vật chất. Có quá muộn để các nước như Việt Nam thực hiện một mô thức tăng trưởng kinh tế với một bộ mặt nhân bản hay không? Is Small still beautiful?

- Kinh Tế và Đạo Đức

Schumacher cảnh cáo là ‘những tật xấu như ham muốn quá mức, đố kỵ và ghen ghét nếu được khuyến khích sẽ gây băng hoại về mặt trí tuệ và từ bi. Tham lam che lấp khả năng nhận sự vật ‘đúng theo bản chất của chúng’. Nếu cả một xã hội bị ô nhiễm vì lòng tham lam, dù thực hiện được những tiến bộ đáng kể, nhưng lại không có khả năng giải quyết những vấn đề căn bản của cuộc sống hàng ngày’. Không cần phải đọc giữa hai dòng chữ, người Phật tử đều có thể hiểu là điều mà Schumacher gọi là ‘không nhìn sự vật đúng theo bản tính của chúng’ chính là thiếu chánh kiến trên con đường hành trì Bát Chánh Đạo. Schumacher không phải ngẫu nhiên chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo việc phát triển kinh tế. Chánh kiến là đầu mối đưa đến những cái ‘chánh’ khác, và trong kinh tế, đó là CHÁNH MỆNH. Trong Small is Beautiful, Schumacher nói là ý niệm chánh mệnh đã khiến ông chọn lựa tư tưởng Phật giáo để làm nền tảng ‘siêu hình’ cho kinh tế. Đây không phải là tình cờ. Hơn ai hết, Schmacher biết là thần học Tin Lành đã bị chủ nghĩa tư bản bóp méo và phát triển kinh tế càng ngày càng đưa đến một thế giới bạo động. Chỉ có ‘siêu hình’ kinh tế dựa trên Phật giáo mới tạo ra một thế giới giản dị và hòa bình. Nói đúng hơn, nhờ sống giản dị nên mới có an lạc thân tâm, hoà bình thế giới.

- Đâu Phải Sự Tình Cờ

Tại sao Schumacher chọn Phật giáo mà không đế cập đến thần học Thiên Chúa hay Tin Lành, như Weber và các nhà kinh tế tân cổ điển? Vào đầu thập niên 80, kinh tế thị trường được phát động mạnh mẽ dưới sự cổ động và đạo diễn hai nguyên thủ của hai cường quốc tư bản mạnh nhất toàn cầu, Margaret Thatcher và Ronald Reagan. Hai vị này chưa chắc là đạo diễn, có thể chỉ là hai diễn viên. Dám đi ngược lại cơn sóng thần toàn cầu hóa có lẽ một phần do Schumacher cố vấn cho các nước đang mở mang, nhất là khi làm việc ở Miến Điện và thấy được tiềm năng của tư tưởng đạo Phật. Một phần khác vì các nước đang phát triển nóng lòng đuổi bắt mức tăng trưởng kinh tế của các nước giàu mà không chịu để ý đến hoán cảnh xã hội và định chế văn hoá của mình. Chánh quyền các nước vừa thu hồi độc lập xem kinh tế thị trường là chiếc đũa thần để vượt qua nghèo đói.

Schmacher nói ông chọn tư tưởng Phật giáo một cách ‘tình cờ’, tại vì tư tưởng Phật giáo có sẵn đó nên ông ‘khai thác’ làm nền tảng siêu hình kinh tế, thế thôi. Ông nói là bất cứ tư tưởng thần học của bất cứ một ‘tôn giáo nào’ cũng có thể dùng được để điều hướng phát triển, nghĩa là vấn đề chính là mối liên hệ giữa kinh tế và đạo đức. Đạo đức đã bị loại trừ hẵn trong nghiên cứu và phân tích kinh tế. Chúng ta sẽ thấy quan niệm loại trừ đạo đức khỏi kinh tế không đứng vững một chút nào. 

Dĩ nhiên đây chỉ là một cách nói lịch sự. Thần học Tin Lành đã bị các kinh tế gia thị trường vo tròn bóp méo biến mọi người thành đàn ngạ quỷ tham lam, thay vì có đời sống thanh bạch như tư tưởng Thanh Giáo chính thống. Schumacher cho rằng khâu chính mệnh trong con đường Bát Chánh Đạo là khởi điểm cho những suy nghĩ của ông về một mô thức kinh tế Phật giáo. Trong thời Đức Phật còn tại thế, kinh tế còn đơn giản, nhưng Đức Phật đã khuyến cáo đệ tử không nên làm các nghề không chính đáng như bán thịt, bán vũ khí và bán rượu. Trong nhiều đoạn kinh khác, Đức Phật còn đưa các lời khuyên cụ thể làm thế nào để sống một cuộc đời thanh bạch hạnh phúc, như Aristote đặt vấn đề với đệ tử mình ‘nên sống cuộc đời như thế nào’. Đức Phật xem tiện nghi vật chất chỉ là phương tiện để chúng ta có điều kiện chuyên tâm và tinh tấn trên con đường tu tập giải thoát tâm linh. Vật chất chỉ là phương tiện chớ không phải là mục đích tối hậu của đời người. Marx và các nhà kinh tế thị trường có một điểm chung là nhìn lịch sử, văn hoá và các cở sở thượng tầng như đạo đức tôn giáo qua lăng kính ‘kinh tế’, cho rằng sự sung túc vật chất trong đời sống cá nhân hay quốc gia có thể tạo ra một xã hội đạo đức đem đến hạnh phúc cá nhân hay hòa bình thế giới. Theo đạo Phật khi tâm không an lạc, dù giàu có đến đâu, chúng ta vẫn không cảm thấy hạnh phúc. Đời sống tại các nước giàu nhất hiện nay cho thấy rằng sung túc không đồng nghĩa với hạnh phúc. Chỉ số an sinh đòi hỏi nhiều yếu tố khác hơn là lợi tức. Những nước có chỉ số an sinh cao nhất không phải là Mỹ, mà là các quốc gia Bắc Âu và Tây Âu, trong đó GNP mỗi đầu người chỉ bằng 3/4 của Mỹ. GNP mỗi đầu người tại Thụy Điển là 28,910 trong khi GNP môi đầu người của Mỹ là 37,870. Thụy Điển là quốc gia có chỉ số an sinh cao nhất và Mỹ không có tên trong danh sách 10 nước đứng đầu về đời sống an lạc. 

Tuy nhiên Đức Phật phải là không phải chỉ để ý đến con đường nội tỉnh bên trong, Ngài cũng không quên việc tạo dựng một xã hội sung túc hay công bằng. Trong Trường Bộ Kinh, phẩm Chuyển Luân Thánh Vuơng Sư Tử Hống, Đức Phật có nhắc đến đến một vị quân vương dùng chánh pháp trị nước, ‘không dùng trượng hay dùng kiếm’. Người cai trị phải được xem như là người ‘bảo vệ hợp pháp cho nhân dân, cho quân đội, thôn dân, thị dân và cho cả muông thú!’ Có hưng thì có phế, có thịnh thì có suy, tất cả đều tùy thuộc vào nghiệp lực, hay hành động của những người có trách nhiệm. Phẩm Sư Tử Hống đưa ra những lý do có thể làm một triều đại hưng hay phế: nếu ‘quần thần’ sống nhờ ‘bùa chú’, nếu an sinh của dân chúng không còn được bảo vệ, nếu nạn nghèo đói lan tràn, đó là dấu hiệu suy tàn. Bần cùng sinh đạo tặc, nghèo khó là nguyên nhân sinh ra bất ổn về xã hội và nếu quan quân phản ứng bằng cách dùng vũ lực, bọn trộm cắp cũng sẽ dùng dao kiếm để hành nghề đạo chích. Hà chính như mãnh hổ, những chế độ tàn độc gây ra nghèo khó là nguyên nhân chính của tất cả rối loạn hay cách mạng. Hoàng đế A Dục là người áp dụng những lời dạy của Đức Phật về chánh sách cai trị bằng chánh pháp trong lịch sử. Nguyên nhân của khổ đế ngoài góc độ tâm linh, còn có thể nhìn theo góc độ chính trị , xã hội hay kinh tế.

Schumacher cũng nhận xét là, sau khi giải thực rồi, chánh quyền các nước Á Châu thường nhờ các cố vấn kinh tế Tây Phương, như Schumacher, lập kế hoạch phát triển quốc gia theo mô thức Tây Phương. Không có một lãnh tụ nào chịu nghĩ là lối sống Phật tử có thể dùng làm nền tảng căn bản cho một nền kinh tế Phật giáo, cũng như lối sống tiêu thụ của Tây Phương đã đưa đến việc thành hình kinh tế thị trường.

- Viễn cảnh của Kinh tế Phật Giáo

Một kinh tế quí trọng con người, xem con người là mục tiêu phục vụ, As if People Mattered, phải tránh chứng bệnh ‘mù lòa về siêu hình’, mà phải ươm mầm kết nụ từ một nền đạo đức-tôn giáo nào đó. Chế độ kinh tế tư bản- thị trường đơm hoa kế nụ từ nên đạo đức Tin Lành như Max Weber kết luận. Một kinh tế chuyển tiếp như Việt Nam cũng cần một nền đạo đức dân tộc, nhất là đạo đức Phật Giáo, làm nến tảng phát triển.

Schumacher đã tiên đoán là một kinh tế dựa trên lòng tham lam không thể nào dẫn tới hoà bình. Schumacher bị hấp lực của Phật Giáo nhờ những kinh nghiệm cá nhân trong khi sống là làm việc ở Miến Điện (duới thời U Nu -U Thant) và vì là người ngoại quốc, ông có khả năng nhìn xuyên qua vỏ bọc văn hoá, thấy được yếu tính căn bản của Phật Giáo: lối sống giản dị đưa đến hoà bình.

Thực hành con đường bát chánh đạo, một hành giả không nhắm mục đích nào khác hơn là an lạc với chính mình, an lạc với các chúng sinh khác, kể cả đất đá cỏ cây, muông thú, vì chúng sinh không phải chỉ có con người. An lạc thân tâm ‘bên trong’ rồi đổi hướng chuyển hóa sang thế giới ‘bên ngoài’. Nói ‘bên trong’ ‘bên ngoài’ chỉ là cách nói gượng ép. Ngoài cũng là trong mà trong cũng là ngoài Như một vòng tròn, không ai biết nơi nào đầu, nơi nào cuối. Nói như thuật ngữ thiền, “Tâm bình, thế giới bình, uống xong một chén trà, chiến tranh sẽ chấm dứt”. Không chuyền hóa tâm linh mà vẫn muốn cải cách hay cách mạng, hậu quả là chỉ đem ‘gươm giáo’ và tai ương đến cho thế giới bên ngoài mà thôi, Còn chỉ muốn ‘tu’, mũ ni che tai, không dám dẫm chân vào chốn bùn lầy, vào trong biển lửa, không dám có thái độ ngạo nghễ như Thái Hư ‘phồn hoa ngã bất hoài vinh nhục’, những hành giả nào chỉ biết ngồi thở ra hít vào, cho đó là mục đích tôi hậu của con đường giải thoát, thực ra họ là những fundamentalists ở các tôn giáo định chế khác.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa bất ổn vả bạo động hiện nay, có những bố tát âm thầm làm các công việc ‘bình thường, tâm thị đạo’ trên các lỉnh vực chính trị hay kinh tế của thế giới bên ngoài. Họ là những ‘tân bồ tát’ làm việc bên cạnh bồ tát truyền thống như Quan Thế Âm, Phổ Hiền, Đia Tạng, Long Thọ…  Một thi sĩ Nhật, cũng là người tích cực hoạt động xã hội, Nanao Sakaki, nói là các bổ tát thời hiện đại có thể là chánh trị gia hay một kinh tế gia.

- An lạc

Mục tiêu giải thoát theo đạo Phật không phải giải quyết vấn đề kinh tế, mà xác định ý nghĩa đời sống. Đạo Phật chủ trương con đường Trung Đạo, nên không chấp nhận con đường khổ hạnh, nhưng cũng không khuyến khích các hành giả sống một cuộc đời xa hoa, dục lạc, hưởng thụ chỉ vì mục tiêu hưởng thụ. Châm ngôn đời cống của đạo Phật cực kỳ giản dị: “Tránh làm điều ác, gắng làm điều lành, thanh lọc tâm ý”. Lối sống này hoàn toàn tương phản với lý thuyết kinh tế dựa trên chủ nghĩa thực dụng, cỏ vỏ cho một lối sống ‘Greed is good’. Nói như Schumacher, lối sống ‘kỳ diệu’ của Phật tử là tìm cách thoả mãn tối đa, nghĩa là đạt đến mức an lạc, với phương tiện vật chất tối thiểu. Các nhà kinh tế thị trường đo mức sống tiểu chuẩn bằng lợi tức trung bình GNP trên mỗi đầu người và số lượng sản phẩm tiêu thụ hàng năm, với giả định là người nào kiếm nhiều tiền và tiêu thụ nhiều chừng nào, họ có hạnh phúc hơn những người có lợi tức ít và tiêu thụ ít. Kinh tế Phật Giáo xem giả định của kinh tế tiêu thụ là ‘phi lý’, bởi vì tiêu thụ chỉ là phương tiện duy trì và góp phần vào an sinh của chúng ta. Chủ trương của Kinh Tế Phật Giáo là tăng tối đa mức an lạc-hạnh phúc từ mức tiêu thụ tối thiểu. Dĩ nhiên khẳng định này đòi hỏi một định nghĩa có thể chấp nhận được về an lạc- hạnh phúc và đâu là mức tiêu thụ tối thiểu.  

Phật giáo không xem giàu sang, của cải hay sung túc vật chất là một trở ngại cho việc tu tập, nhưng lòng ham muốn, quyến luyến ôm chặt của cải mới là ‘vấn đề’. Tập đế nói rõ ràng là lòng ham muốn, ôm khư khư, không những của cải vật chất, mà còn danh hảo, tư tưởng, ý thức hệ, lúc nào cũng xem chỉ có mình là nắm giữ chân lý, cho những người khác là sai lầm, là ngoại đạo. Chấp ngã và chấp hữu là do nhiêu lý do, như thiếu chánh kiến, vô minh, không hiểu và sống lý vô thường. Thủ phạm là ‘ngã’ giả hợp, nghĩa là những yếu tố tâm lý. Khi đói, chúng ta chỉ muốn ăn no mặc ấm. Khi no đủ và ấm áp, chúng ta lại muốn ăn ngon mặc đẹp. Thế nào là ngon? Thế nào là đẹp? Ngon và đẹp tùy theo nhận thức và kinh nghiệm của mỗi người, nóí theo ngạn ngữ Tây Phương ‘in the eyes of the beholder’! Nghĩa là những yếu tố tâm lý. Nhu cầu có nguyên nhân từ hoàn cảnh khách quan (đói, lạnh), ngon đẹp là một ham muốn chủ quan. Kinh tế thị trường chỉ tạo những sản phẩm thoả mãn ham muốn chủ quan, phần lớn là không cần thiết. Kinh Tế Phật Giáo bảo đảm là mọi người đều có đồng đều cơ hội thoả mãn nhưng nhu cầu khách quan, như ăn no mặc ấm, có một mái nhả che chở, được chăm sóc sức khỏe khi bệnh hoạn, con cái có phương tiện giáo dục căn bản.  Phật Giáo không bao giờ ca ngợi nghèo khó hay cản trở tiến bộ kinh tế như một số người cố tình, hay vô tình vì thiếu hiểu biết tường tận về triềt lý đạo Phật, kết tội. Bởi vì nhiều khi hưởng thụ thừa mứa, nhiều người tự hỏi ‘còn gì nữa không?’. Những nhà kinh tế thị trường không thể trả lời câu hỏi này và có thể nổi quạu “vậy mà còn chưa đủ sao? muốn gì nữa đây?’ Các nhà kinh tế Phật Giáo có thể đủng đỉnh: “Ai cũng muốn hạnh phúc- Phật giáo gọi là an lạc. Đây là một nhu cầu tâm linh và không ai giúp mình, ngoài mình, thoả mãn nhu cầu tâm linh này. Muốn lên đường làm hành giả thì ai cũng phải bước bước thứ nhất; tránh làm điều ác, gắng làm điều lành, thanh lọc tâm ý. Các ông không giúp chúng tôi được vì các ông bị mù lòa về siêu hình!

Nếp sống giản dị, thiểu dục, không cầu thì không lụy, sẽ đưa ttến thế giới hoà bình. Một đời sống sung túc như Marx, Keynes hay Samuelson đề nghị không đưa đến một thề giới hoà bình, một thiên đường hạ giới. Dựa trên yếu tố lợi hoà đồng phân trong quan niệm lục hòa, mục tiêu chính yếu của kinh tế Phật Giáo là giảm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ở một mức độ có thể chấp nhận được. Nếu sống xa hoa trong khi người chung quanh không có nước sạch để uống, trong khi hàng triệu trẻ em còn thiếu dinh dưỡng hay chết đói, là lối sống không thể chấp nhận được, Dĩ nhiên kết luận này còn tùy thuộc vào định nghĩa thế nào là ‘xa hoa’ . Bất công xã hội là một dấu hiệu thất bại lớn nhất của kinh tế thị trường.Khi viết những dòng này, tôi biết thông tin là một CEO của MacQuarie Bank ở Úc lãnh lương 21 triệu đô Úc mỗi năm. Lương trung bình của một người thợ Úc khoảng chừng 25 ngàn đô Úc một năm. Dân quê ở các nước nghèo còn sống với lợi tức 1 hay 2 đô la mỗi năm và con số này theo Liên Hiệp Quốc có thể lên tới 1/3 nhân loại. Thảo nào nhà văn Arundhatu Roy gọi đó là một điều dơ bẩn.

- Lao động và phát triển nhân cách

Schmacher nhận xét là trong kinh tế thị trường, chủ nhân muốn đạt được năng xuất tối đa với tổn phi lao động tối thiểu. Trong khi công nhân muốn có lợi tức mà không muốn làm việc. Phật giáo cho làm việc là phương tiện tốt nhất để phát triển và hình thành nhân cách. Việc làm giúp mọi người phát triển kỹ năng, học tập tinh thần đồng đội, tránh ích kỷ, tạo ra những sản phẩm cần yếu cho xã hội và lợi tức cho chính mình. Làm việc không phải là một cực hình, mà là thực phẩm nuôi đời sống tâm linh. Kinh tế thị trường muốn giảm thiểu số công nhân xuống đến một mức có thể có được, và trong kinh tế toàn cầu, dời nhà máy sản xuất qua các nước đang phát triển để thuê công nhân với các giá rẻ mạt, hay qua trung gian các nhà thầu trả công nhân trong các sweatshops với giá chết đói, làm việc trong những điều kiện lao động như thể chế độ nô lệ còn tốn tại. Người ta chứng kiền một tình trạng ngịch lý các tổ hợp công bố tiền lời hàng năm hàng tỷ đồng và cùng một lúc tuyên bố sa thải công nhân. Trong những quốc gia còn chế độ an sinh, người ta chứng kiến những người trốn tránh làm việc, xem an sinh là một cái nghề. Họ nghĩ như vậy là không, nhưng trong những gia đình ăn bám an sinh, khi cha mẹ không có tham vọng nào trong cuộc đời, họ sẽ tạo ra một giai cấp nghèo khổ kế truyền từ đời cha đến đời con.

Kinh tế thị trường thường có những giả thuyết không bao giờ chứng minh rõ ràng, nhưng các kinh tế gia cứ tin như một giáo điều: mức lạm phát thường tỷ lệ nghịc với mức thất nghiệp. Cái này tăng thí cái kia giảm. Lạm phát có mghĩa là đồng tiền mất giá, ai cũng mất, càng có nhiều tiền càng bị mất nhiều, trong khi công nhân mất việc vì nạn thất nghiệp cao, chỉ có gia đình họ bị thiệt thòi. Kinh tế tư bản dĩ nhiên là chỉ lo đến những người có tiền đầu tư, nên luôn luôn khuyến khích chánh phủ chú ý đến hoạt động kinh tế vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là kiểm soát lạm phát.

Theo Schumacher, kinh tế Phật Giáo phài tìm mọi cách cung cấp công ăn việc làm cho những người còn đủ khả năng làm việc, vì công việc làm là phương tiện có lợi tức mà còn là thức ăn nuôi dưỡng nhân cách. Bất tác bất thực. Tuy nhiên một vài đề nghị của Schumacher sẽ bị phong trào nữ quyền chống đối, Vai trò của phu nữ là nuôi dưỡng con cái thành người, phụ nữ không cần thiết phải tìm công việc bên ngoài. Nếu phụ nữ phải làm việc ở các công sở hay cơ xưởng trong khi để con cái chạy rong ngoài đường phải được xem như là sự thất bại về mặt kinh tế. Ngày nay ở Tây phương số phụ nữ tốt nghiệp đại học nếu không hơn thì cũng ngang ngữa với nam giới. Suy nghĩ này của Schumacher sẽ bị kết án là lạc hậu, nhưng có thể làm nẩy sinh hai vấn đề. Thứ nhất, khi đặt mức lương tối thiểu căn bản, chánh phủ phải dựa theo cơ sở mỗi gia đình chỉ có một đầu lương. Thứ hai, nếu phụ nữ chọn lựa ở nhà săn sóc con cái, họ sẽ được giúp đỡ qua hệ thống thuế và trợ cấp an sinh. Các phụ nữ hiện đi làm các công việc ‘bên ngoài’ giản dị vì một đầu lương không đủ sống. Không phải phụ nữ nào cũng muốn hy sinh gia đình cho sự nghiệp, và dĩ nhiên phụ nữ xem việc làm ‘nội trợ’ là một quan niệm ‘tụt hậu’ trong tình trạng tiến hóa xã hội ngày nay. Một kinh tế chú trọng đến gia đình ít nhất phải cho phụ nữ có quyền chọn lựa. Và nếu số phụ nữ chọn lựa thiên chức làm mẹ lên tới 4% của nhân lực còn trong tuổi lao động, chúng ta sẽ có được một nền kinh tế cung cấp công ăn việc làm cho tất cả những ai muốn làm việc.

- Hoà bình

Một nếp sống giản dị đưa đến an lạc thân cũng như tâm. An lạc thân tâm thì hướng tới bên ngoài. Tâm bình, thế giới bình. Trong thời đại tranh chấp đẫm máu giữa các tôn giáo dựa trên bình phong quốc gia, Phật Giáo là một tôn giáo hoà bình và trí tuệ. Motto ‘Duy Tuệ Thị Nghiệp’ của Viện Đại Học Vạn Hạnh trước đây phản ảnh toàn vẹn tinh hoa của Phật Giáo: Thiếu chánh kiến thì bất cứ hành động nào cũng gây nghiệp. Muốn giải nghiệp cần phải có tuệ giác. Người Tây phương mê Phật Giáo cũng vì hai đặc tính này. Kinh Kalama dạy cho người Phật Tử tinh thần duy tuệ, không tin bất cứ điều gì cho đến khi tự mình thấy điều đó hợp với tuệ giác. Tôi tránh dùng chữ duy lý, vì duy lý chỉ là một phần phiến diện của tuệ giác. Người Phật tử không bao giờ tư cho mình đã nắm được toàn vẹn chân lý nên không bao giờ chấp nhận chiến tranh, nói chi là chiến tranh tôn giáo như ở Bắc Ái Nhĩ Lan, Trung Đông hay Balkan. Nói như vậy không phải là không có những vết dơ trong lịch sử, như cuộc nội chiến ở Sri Lanka. Một số tăng già ở đây có lúc chống đối giải pháp hoà bình. Như có một nhà sư ở Mỹ công khai tán tụng chiến tranh Iraq của Bush.

Đức Phật có lập trường ‘phản chiến’ rất rõ: “Chiến thắng chỉ đưa đến oán thù. Chiến bại đưa đến khổ đau. Người có trí tuệ không tìm chiến thắng cũng không muốn chiến bại’ Hay Huyền Trang bày tỏ thái độ khi tư chối theo vua ra quan sát chiến trường: ‘Giới luật cấm các sư chứng kiến những gì chiến trường’. Trong chiến tranh Việt Nam trước 1975, có một vị học tăng đã nhẫn nhục không chịu chọn một phe lâm chiến dù bị một quân nhân Mỹ nhổ nước miếng trên chiếc đầu trọc.

Không phải chỉ có thái độ phản chiến mới phản ảnh đặc tính hòa bình của đạo Phật. Phật giáo là một tôn giáo duy nhất ngoài việc cấm sát hại sinh mạng con người, Phật giáo còn bảo vệ quyền của thú vật, cây cỏ và đất đá. Nghĩa là không những bảo vệ ‘nhân quyền’ Phật giáo còn muốn bảo vệ ‘chúng sinh quyền’. Triệu Châu nói con cho cũng có Phật tính, một phần cũng biểu hiện mối quan tâm này. Chúng sinh tuyệt đối bình đẵng, và là một trong bốn lời nguyện lớn của Phật tử khi tụng kinh và hồi hướng. Không thể nào đạt tới mức bất bạo động tuyệt đối, tuy nhiên chưa có giáo chủ tôn giáo nào như Đức Phật, dặn các đệ tử xuất gia niệm chú vãn sinh cho 84 ngàn vi sinh vật trước khu uống một chén nước lạnh. Trong các bài hịch 1 khắc trên đá, Hoàng đế A Dục, nói là hàng ngày trong bếp ở hoàng cung có hàng trăm sinh vật bị giết để nấu ca-ri. Ngài chỉ cho phép đầu bếp mỗi ngày giết 3 sinh vật, 2 con công và một con nai. Trong tương lai con số 3 này còn giảm xuống nữa, vì trong tương lai hoàng đế có thể chuyển sang ăn chay trường. Trong bài hịch 4, khắc 12 sau khi đang quang, hoàng đế A Dục có lẽ đã chuyển sang ăn chay, kiêng cữ sát hại sinh vật là một điều tốt. Trong bia khắc 5, ngài cấm tàn phá cây rừng một cách phung phí và giới hạn số sinh vật bị đem vào lò sát sinh.

Kinh tế Phật Giáo do đó sẽ có thái độ trang trọng với sinh thái, với cây cỏ và ngay cả với đất đá khai thác làm nhiên liệu. Cứ nhìn cách liền trúc của các tôn giáo độc thần, với tháp chuông cao vun vút, phản ảnh cho tư tưởng thần học chinh phục thiên nhiên, tàn phá thiên nhiên để ‘sinh sôi nẩy nở’. Các chùa thường ẩn nấp sau cây đa đầu làng, nếu có tháp chuông cao, cũng hài hòa với thiên nhiên chung quanh. Thiên nhiên có thì các chủng loại sinh vật mới có môi trường sống. Loài người không thể nào dống còn nếu không có cây cỏ và các sinh vật khác. Mọi loại đều tương tức tương hệ như trong thuyết duyên khởi. Thuyết hỗn loạn (Chaos) trong vật lý nói là một con bướm đập cánh ở vùng Amazon cũng gấy ra chấn động ở nơi khác.

Do đó kinh tế Phật giáo phải có thái độ trang trọng với việc khai thác tài nguyên. Việc khai thác tài nguyên dùng một lần như than đá, dầu hỏa và khí đốt, ngoài chuyện gây ra nạn khí thãi còn gây ra chấn thương nào khác cho địa cầu không? Có cần bỏ thêm ngân quỹ để nghiên cứu thêm về các tài nguyên sinh năng lực như nước vả mặt trời không. Gầy đây có phong trào đua nhau xây dựng các nhà máy nguyên tử, cho rằng nguồn nguyên liệu này sạch hơn than đá hay dầu hỏa. Năng lực nguyên tử có thể ‘sạch hơn’, nhưng có nhà khoa khoa học nào bảo đảm là việc tồn trữ các phế thãi nguyên tử an toàn không? Hay là vì chuyện này chỉ xảy ra trong tương lai dài hạn, nên chúng ta mặc kệ, để cho con cháu chúng ta đối phó? Trí nhơ chúng ta quá ngắn nên chúng ta quên bài học cay đắng của dân chúng quanh lò Chernobyl?  Ngay cả chuyện xảy ra hằng ngày như đốn rừng. Phá rừng có ảnh hưởng gì nạn dất lở và lũ lụt không? Các nhà sư Thái Lan đã có phong trào ‘quy y’ cho các rừng cây và vì dân chúng trọng đạo Phật nên không dám hạ các cây đã quy y một cách thẳng tay. Đây là những biện pháp tuyệt vọng trong thời đại tuyệt vọng? Có thể. Nhưng biết đâu những hành động lẩm cầm này có thể khiến mọi người quán chiếu cẩn thận khi tiêu dùng các tài nguyên như điện, nước, ăn thịt uống rượu, ăn mặc thời trang, nói chung một lối sống giản dị. Schumacher nói giản dị và an lạc-hoà bình đi đôi với nhau. Đó là chưa kể những gì đẹp nhất là những gì giản dị nhất. Ai bảo đạo đức không ăn nhằm g ìvới kinh tế, tôi xin dẫn lại ý kiến của Frank Knight, một trong những tổ sư của Kinh Tế Thị Trường: ‘vấn đề chính yếu trong kinh tế và xã hội là đi tìm và định nghĩa các giá trị- chính ra đó là một vấn đề luân lý, hay nói chính xác hơn, đó là một vấn đề tôn giáo’.

TẠM KẾT LUẬN

Năm 1996, tình cờ đọc được Small is Beautiful, nhất là chương Buddhist Economics, tôi nhớ đến đoạn văn Người Cùng Tử trong kinh Pháp Hoa. Trong nhà có viên ngọc quý mà không chịu đem ra xài, chạy quanh chạy quất đi tìm hết đông tới tây, vọng ngoại, thiếu tự tin vào vốn liếng văn hoá và đạo học của dân tộc. Lúc đó tôi còn bận sưu tập tài liệu để viết cuốn Vietnamese Engaged Buddhism, nên chỉ viết bài điểm sách sau khi Small is Beautiful phát hành được gần 20 năm. Nếu Đạo Phật có thể cung cấp con đường chính trị tình thức, tại sao lại không thể cung hiến một mô thức kinh tế cũng tỉnh thức và đầy nhân tính hơn là mô thức kinh tế khích động lòng tham, khiến con người mãi trầm luân trong tiêu thụ như những con ngạ quỹ. Như thi sĩ Nhật có nói một câu đánh động tâm thức của tôi: “Ngày nay Bồ Tát có thể là một nhà kinh tế hay là nhà chính trị”. Bồ tát không phải chỉ là một lý tưởng, mà có thể là con người bằng xương bằng thịt, sống ở đây bây giờ với chúng ta, và nhờ thế mới nghe được tiếng kêu than của chúng sinh, và mới phát khởi lời nguyện ‘chúng sinh vô biên thề nguyện độ’.  

Trong quá trình cố gắng tìm sự liên hệ giữa tư tưởng cốt tuỷ của đạo Phật với những nguyên tắc đề nghị của Schumacher, tôi đọc được tác phẩm của Robert Nelson, phân tích lịch sử kinh tế dưới góc độ tôn giáo, tôi càng tin tưởng rằng ngoài lĩnh vực chánh trị, đạo Phật còn có thể cung cấp những nguyên tắc chỉ đạo kinh tế cho một nước có hoàn cảnh đặc biệt như Việt Nam, một quốc gia đang đứng giữa ngả ba đường. Chúng tôi đã từng nhắc đi nhắc lại nguyên tắc nhập thế, phục vụ dân tộc dưới ánh sáng của Đạo Pháp áp dụng cho hoàn cảnh Việt Nam.

Tịnh độ, đất sạch của Phật giáo không nên được hiểu như một cảnh giới nào đó ở Tây Phương cực lạc, đợi chết rồi mới thấy. Tịnh độ chính là cõi ta bà, chốn phồn hoa, là ‘đời thái bình cửa thường bỏ ngõ’, là utopia một xã hội không còn vong thân, không còn giai cấp, không còn bóc lột. Đó là một xã hội mà mọi người đều khinh bỉ tham lam, mánh mung, xem trọng công bình, it1 nhất theo Khổng Giáo ‘kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân’ hay đi xa hơn, như Phật Giáo, xem bố thí là hạnh nguyện cao quý nhất, hơn cả việc giữ giới.

Người Mác Xít có thể bị ‘mặc cảm’ vì sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa, nhưng lý tưởng phục vụ của Marx là một điều đáng tự hào . Về phương diện này Marx đáng được đặt ngang hàng với thánh hiền Đông Tây. Đây là lý do tại sao các trí thức thế giới đã từng ngưỡng mộ và tôn sùng Marx trong nhiều thập kỷ, dù họ kịch liệt chống đối chủ nghĩa Stalin ở Nga. Trí thức Tây Phương như Althusser, Sartre, Bertrand Russell, Herbert Marcuse, chỉ kể ra một ít tên, là những tư tưởng gia khổng lồ chịu ảnh hưởng phương pháp nghiên cứu và nhân cách của Marx. Nhà thần học Tillich bảo Marx là nhà ‘thần học’ gây ảnh hưởng lớn nhất, sau Martin Luther, người sáng lập phái thệ phản Tin Lành. Nhiều người vẫn còn nuối tiếc gọi chủ nghĩa Marx là chủ nghĩa xã hội ‘khoa học’. Những giả định lịch sử của Marx đều không thể hiện trong lịch sử. Thuyết Mác Xít là giả định siêu hình như của Khổng và Phật ở phương Đông, cũng như triết lý của các hiền giả phương Tây, từ Aristote, Aquinas, Calvin, đến Martin Luther. Đó là một loại triết lý, thần học, siêu hình hay tín ngưỡng có thể áp dụng để sống một cuộc đời có ý nghĩa. Người Phật tử không có chút mặc cảm nào khi nghĩ rằng lý tưởng của Marx là một thứ Bồ Tát hạnh, vấn để thực hiện bồ tát hạnh như thế nào. Về phương diện tập thể, lý tưởng phục vụ công bằng xã hội theo nguyên tắc lợi hoà đồng phân, chia cái bánh phát triển đến một mức có thể đưọc và vế phương diện cá nhân, có được một đời sống an lạc, hạnh phúc, kinh tế Phật Giáo có thể xây dựng một xã hội tịnh độ ở đây- bây giờ. Đó là nền kinh tế với bộ mặt nhân bản, đó là con đường phát triển hoà bình, như Schumacher xác nhận, As If People Mattered.

Trong hơn 30 năm nay kể từ khi Schumacher xuất bản tác phẩm Small Is Beautiful (1977) Phật giáo đã được trí thức Tây Phương tiếp nhận niềm nở. Khi được hỏi lý do, các Phật tử Tây Phương tuyên bố hai lý do chính khiến họ bị hấp lực của Phật giáo là Hòa bìnhthuyết duyên khởi. Phật giáo Việt Nam và các nước Á Châu không thể tiếp tục dẫm chân trên các lối mòn với những lễ nghi mê tín. Đức Đạt Lai Lạt Ma với hàng ngũ tăng đoàn thu tiếp được ngôn ngữ và giáo dục Tây Phương, đã làm Phật giáo Tây Tạng được nhiều người Tây Phương hành trì. Ngoài ra còn có hai ‘Bồ Tát’ khác đang cố gắng ‘hiện đại hóa’, ‘nhập thế hóa’ và ‘toàn cầu hóa’ Phật giáo trong thời đại tin học, đó là Nhất Hạnh của Việt Nam và Sulak Sivaraksa của Thái Lan. Cả hai trước đây đều được đề cử giải Nobel Hòa Bình.

Lực lượng Phật tử chuyển pháp ở các nước Tây Phương phần lớn do các học giả và cư sĩ. Chánh pháp được giải thích một cách thích hợp với tinh thần duy lý từ thế kỷ ánh sáng và đáp ứng những vấn đề do hậu quả của cơn sóng thần kinh tế toàn cầu gây ra. Cuộc cách mạng giáo lý mà Thái Hư Đại Sư kêu gọi từ đầu thế kỷ phải được tiếp tục thực hiện. Đạo Phật không phải là một tôn giáo địa phương, không đông tây nam bắc, và nếu bóc các lớp vỏ văn hoá bên ngoài, phần cốt lõi còn lại có thể áp dụng như một đạo lý toàn cầu, mà Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi là Universal Responsibilities. Phật giáo có phần tôn giáo nghi lễ cần thiết cho quần chúng, nhưng chỉ có con đường tuệ giác mới thu phục được hàng ngũ trí thức và thanh niên. Có tuệ giác chúng ta sẽ có chánh kiến và trong lĩnh vực kinh tế, tìm được lối sống theo chánh mệnh. Không ai không muốn có của cải đầy nhà, nhưng đó không phải là mục đích tối hậu của đời người. Theo đạo Phật, cái làm chúng ta bị ràng buộc không giải thoát được không phải là của cải vật chất, mà chính là thái độ ham muốn hưởng thụ, bám víu tài sản, vật chất. 

Sự ưu thắng của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường không phải là con đường phát triển hoà bình và đưa đến một đời sống an lạc. Sự va chạm chính trị và văn hoá, các cuộc khủng bố và chiến tranh do các thành phần fundamenlists của các tôn giáo độc thần đã làm nổi bật đóng góp có thể được của Phật Giáo cho một kinh tế giản dị và hòa bình. Theo ý tôi, Phật tử phải có quyết tâm ‘cách mạng giáo lý’, khiến Phật giáo mang nhiều yếu tố tuệ giác hơn tôn giáo, để có thể sản xuất những Bồ Tát kinh tế và những anh quân chánh trị, một thừ đạo Phật mà hành giả người Anh, Stephen Batchelor gọi là Buddhism Without Beliefs.

 Không phải vì tư tưởng Phật giáo ‘có sẵn đó’ mà Schumacher mới hứng khởi hình thành mô thức kinh tế Phật giáo. Đâu phải sự tình cờ mà Schumacher viết Small is Beautiful, bởi 30 năm trước đây ông đã thấy trước là, không thể nào tránh được một thế giới bạo động trong một xã hội ca ngợi ‘greed is good’. Bát Chánh Đạo có thể điểu hướng phát triển kinh tế, một nền kinh tế có bộ mặt nhân bàn, một kinh tế trong đó people mattered. Liệu Phật giáo có câu trả lời nào cho những vấn nạn nêu trên trước sự hủy diệt văn hoá đạo đức của một lý thuyết kinh tế có tên kinh tế thị trường?

 



[1]    Nhà nghiên cứu, (Sydney, Australia)

Sách tham khảo

- Anderson, Sarah & Cavanagh, John. Global Economy. The New Press, New York, 2005.

- Batchelor, Stephen. Buddhism Without Beliefs. Bloomsbury, UK, 1998.

- Bourdier, Pièrre. Firing Back, Against the Tyranny of the Market (2 vols). The New Press, New York, 2001.

- Hertz, Noreena. The Silent Takeover. Global Capitalism and the Death of Democracy. William Heinneman, London, 2001.

- Jawara, Fatoumata & Kwa, Aileen. Behind the Scenes at the WTO. Zed Books, London, 2004.

- Kraft, Kenneth (Ed). Inner Peace, World Peace. Essays on Buddhism & Non-Violence.StateUniversity of New York Press, Albany, 1992.

- Leggett, Jeremy. Half Gone. Portobello, London, 2005.

- Quán Nhu. Phật giáo Trong Thế Kỷ Mới (Chương 13). Giao Diem, California, 1996.

- Schumacher. E.F. Small is Beautiful. A Study of Economics As If People Mattered. Randon House, Sydney, Australia, 1993.

- Stiglitz, Joseph E. Globalization and Its Discontent. W.W. Norton Co, New York, 2002.

- The World Bank. 2005 Little Data Book.

- J.K. Galbraith. The Affluent Society. Penguin Books, Victoria, Australia, 1958.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 13
    • Số lượt truy cập : 6057910