Thông tin

SO SÁNH KHOA NGHI PHẬT GIÁO TRIỀU CHÂU

VÀ ĐẠO GIÁO QUẢNG ĐÔNG Ở CHỢ LỚN

 

LÊ HẢI ĐĂNG

 

Khánh Vân Nam Viện

 

Âm nhạc Phật giáo Triều Châu và Đạo giáo Quảng Đông theo chân những di dân người Hoa du nhập Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ 20. Sau khi thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời, như: Tịnh xá Sư Trúc Hiên (số 33 đường Phú Hữu, phường 14, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh), Khánh Vân Nam Viện (số 269 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 16, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh) thì lấy đó làm cơ sở hoạt động. Âm nhạc tôn giáo, tín ngưỡng vốn khác với âm nhạc thế tục. Nó đòi hỏi tính chất quy phạm về môi trường diễn xướng cũng như nghi thức thực hành.

Trong cộng đồng người Hoa, “Tam giáo đồng nguyên” là một quan niệm mang giá trị phổ biến, đạt được sự đồng thuận cao. Xét về mức độ, Nho giáo phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt thông qua môi trường giáo dục, ngôn ngữ để bảo lưu. Còn Phật giáo và Đạo giáo duy trì chức năng kép, vừa đảm bảo tính chất của một hệ giá trị văn hóa, vừa bảo lưu tính quy phạm của tôn giáo, tín ngưỡng. Trên thực tế, người Hoa có xu hướng vận dụng tổng hợp cả ba hệ giá trị này vào đời sống, tuy mức độ đậm nhạt khác nhau. Bởi vậy, Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đều ẩn hiện trong đời sống văn hóa người Hoa. Trong cơ sở tín ngưỡng, Nho - Phật - Đạo đều giành được những vị trí trang trọng để tôn thờ, như Phật Thích Ca, Quan Thế Âm, Lão Tử, Khổng Tử, bên cạnh nhiều vị thần xuất thân từ tín ngưỡng dân gian phối tự theo hệ thống Tam giáo, như Bát tiên, Thiên Hậu, Quan Công, Bổn Đầu Công…

Trong các yếu tố giúp nhận diện hình thái tôn giáo, tín ngưỡng, gồm giáo lý, nghi thức, giới luật, giáo hội và bộ phận biện giải bằng văn tự, như Nho học trong Nho giáo, Phật học trong Phật giáo, Đạo học trong Đạo giáo thì nghi thức hành lễ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua nghi thức có thể bóc tách các lớp văn hóa phủ ngoài hình thái tín ngưỡng. Nghi thức cũng là yếu tố thay đổi theo từng truyền thống văn hóa, như văn hóa Phật giáo Ấn Độ sau khi truyền sang Trung Quốc đã bị phủ ngoài lớp “vỏ” nghi thức văn hóa bản địa, từ nhạc lễ cho đến các thủ pháp xướng, tán, niệm, chú, bạch, sám… Các yếu tố này giống như những phương tiện dùng để thực hành, đồng thời biểu hiện giá trị nội tại, ngoại tại của nghi lễ.

Vì, Nho giáo không truyền vào cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ với tư cách một hệ thống lễ thức bảo lưu trong cơ sở thờ tự, như trường hợp lễ Thích điển ở Văn miếu, thành phố Đài Nam, Đài Loan chẳng hạn, nên bài biết này tập trung tìm hiểu các khoa nghi trong lễ Vu Lan, nghi lễ quan trọng nhất diễn ra vào sơ tuần và chung tuần tháng bảy âm lịch hàng năm diễn ra tại tịnh xá Sư Trúc Hiên, quận 5 và Khánh Vân Nam Viện, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lễ Vu Lan của người Triều Châu tổ chức tại tịnh xá Sư Trúc Hiên vào 3 ngày cuối cùng của tháng 7 (âm lịch). Nghi lễ gồm các khoa nghi sau:

NGÀY 27:

- Thỉnh linh vị tổ tiên

- Khai đàn bái thiên địa, thỉnh Phật tấu sớ

- Lễ bái thủy sám (Sám hối tất thảy tứ sinh lục đạo và những sinh linh có quan hệ với sông nước)

- Lễ bái thập vương sám (Sám hối cho những kẻ từng phạm tội lỗi)

- Lễ bái Kim cang sám (Giải thoát những mê muội cho con người)

- Lễ bái Tịnh thổ sám (khiến cho khắp cõi nhân gian đều trở thành đất lành, mọi người hướng thiện, vứt bỏ ác tâm)

- Lễ bái can Phật sám (Sám hối mọi nhân quả của quá khứ, hiện tại, vị lai)

NGÀY 28:

- Tẩu Kim sơn giải kiết

- Tụng kinh Đại Mông Sơn thí thực nghi quy

Tẩu Kim sơn hay còn gọi là Kim sơn giáo pháp, một trong những khoa nghi quan trọng của lễ Vu Lan, cũng phổ biến trong cả tang lễ. Tẩu có 8 dạng thức:

- Hành ấn Phật (Phật tự) hương cốt tuyến.

- Tả xuất long hữu xuất hổ

- Cửu chi liên

- Tiểu xuyên Kim Sơn

- Bán chi liên (cửu bất đoạn)

- Thiết liên hoàn

- Đại Kim Sơn

- Long hổ thu vĩ

NGÀY 29:

- Hoàn đàn

- Tống thánh

Còn lễ Vu Lan ở Khánh Vân Nam Viện kéo dài từ ngày mùng 1 đến ngày 10 tháng 7 âm lịch, gồm các khoa nghi sau:

NGÀY MÙNG MỘT:

- 9g sáng: Khai đàn

- 10g sáng: Khai quang, khải thỉnh

- 12g trưa: Khai sám Ngọc Hoàng bảo sám

- 12g30 trưa: Diễn tấu cổ nhạc

- 1g chiều: Khai quang, khải linh

- 2g chiều: Khai kinh Huyền môn chân kinh, quyển thượng

- 2g30 chiều: Kiền lễ Ngọc Hoàng bảo sám

- 3g30 chiều: Vãn chiêu cúng thực

NGÀY MÙNG HAI:

- 7g sáng: Kiền lễ Ngọc Hoàng bảo sám

- 8g sáng: Tảo chiêu

- 9g sáng: Kiền lễ Ngọc Hoàng bảo sám

- 10g30 sáng: Kiền tụng Huyền môn chân kinh, yến khách

- 1g chiều: Kiền lễ Thái Thượng Huyền môn kinh, quyển thượng

- 1g30 chiều: Kiền lễ Tam Thanh bảo sám

- 2g chiều: Kiền tụng Thái Thượng Huyền môn kinh, quyển hạ

- 2g30 chiều: Kiền lễ Tam Thanh bảo sám

- 3g30 chiều: Vãn chiêu cúng thực

- 4g30 chiều: Thi tiểu thực

NGÀY MÙNG BA:

- 7g sáng: Kiền lễ Tam Thanh bảo sám

- 8g sáng: Tảo chiêu

- 9g sáng: Kiền lễ Tam Thanh bảo sám

- 10g30 sáng: Kiền tụng Địa Tạng kinh, quyển thượng, cúng thực

- 12g trưa: Kiền lễ Đại bi bảo sám

- 12g30 trưa: Kiền tụng Địa Tạng kinh, quyển trung

- 2g chiều: Kiền tụng Địa Tạng kinh, quyển hạ

- 2g30 chiều: Kiền lễ Tiêu kiếp bảo sám

- 3g30 chiều: Vãn chiêu cúng thực

- 4g30 chiều: Thi tiểu thực

NGÀY MÙNG BỐN:

- 7g sáng: Kiền lễ Tiêu kiếp bảo sám

- 8g sáng: Tảo chiêu

- 9g sáng: Kiền lễ Tiêu kiếp bảo sám

- 10g30 sáng: Kiền tụng Kim cang kinh, cúng thực

- 12g30 trưa: Diễn tấu cổ nhạc

- 1g30 chiều: Đại tán thiên hóa

- 3g chiều: Kiền tụng Vu Lan bồn kinh, huyết bồn

- 4g chiều: Kiền lễ Thần vũ bảo sám

- 4g30 chiều: Vãn chiêu cúng thực

NGÀY MÙNG NĂM:

- 7g sáng: Kiền lễ Thần Vũ bảo sám

- 8g sáng: Tảo chiêu

- 9g sáng: Kiền lễ Thần Vũ bảo sám

- 10g30 sáng: Kiền tụng A Di Đà kinh

- 1g chiều: Kiền tụng, Thái Thượng huyền môn kinh, quyển thượng

- 1g30 chiều: Kiền lễ Vô cực bảo sám

- 2g chiều: Kiền tụng Thái Thượng huyền môn kinh, quyển hạ

- 2g30 chiều: Kiền lễ Vô cực bảo sám

- 3g30 chiều: Vãn chiêu cúng thực

- 4g30 chiều: Thí tiểu thực

NGÀY MÙNG SÁU:

- 7g sáng: Kiền lễ Vô cực bảo sám

- 8g sáng: Tảo chiêu

- 9g sáng: Kiền lễ Thượng nguyên bảo sám

- 10g30 sáng: Kiền tụng Kim cang kinh, Tiễn hành

- 1g chiều: Kiền lễ A Di Đà kinh

- 1g30 chiều: Kiền lễ Trung nguyên bảo sám

- 2g chiều: Kiền tụng Vu Lan bồn, Huyết bồn

- 2g30 chiều: Kiền lễ Hạ nguyên bảo sám

- 3g30 chiều: Vãn chiêu cúng thực

- 4g30 chiều: Thí tiểu thực

NGÀY MÙNG BẢY:

- 6g30 sáng: Kết sám Hạ nguyên bảo sám

- 7g sáng: Tảo chiêu

- 7g30 sáng: Kết kinh Tam nguyên diệu kinh

- 9g sáng: Thanh lý đàn tràng

- 12g trưa: Phóng đại Tam Thanh

- 4g chiều: Tống linh độ Tiên kiều

- 4g15 chiều: Chiêu thần tống thánh

NGÀY MÙNG CHÍN:

- 1g chiều: Phóng thủy u

NGÀY MÙNG MƯỜI:

- 5g sáng: Cúng chư thiên

So sánh nghi thức hành lễ trong khoa nghi Phật giáo, người Triều Châu và Đạo giáo của người Quảng Đông cho thấy mức độ thẩm thấu của Phật giáo vào Đạo giáo khá rõ nét. Chẳng hạn, các ngày mùng ba có Kiền tụng Địa tạng kinh, quyển thượng, trung, hạ; Kiền tụng Kim cang kinh, Vu lan bồn kinh ngày mùng 4; Kiền tụng A Di Đà kinh ngày mùng 5; Kiền tụng Kim cang kinh, A Di Đà kinh, Vu lan bồn kinh ngày mùng 6. Còn đối với khoa nghi Phật giáo của người Triều Châu chủ yếu bảo lưu nội dung Phật giáo bản địa. Đối với hoạt động “Thí thực”, “Tống thánh” đều được triển khai ở cả Đạo giáo và Phật giáo.

Về tổ chức thực hành nghi lễ: ở tịnh xá Sư Trúc Hiên (cơ sở tín ngưỡng Phật giáo Triều Châu) và Khánh Vân Nam Viện (cơ sở tín ngưỡng Đạo giáo, Quảng Đông) đều chia cơ cấu ra thành 2 ban, gồm: ban nghi lễ và ban nhạc lễ. Ban nghi lễ tịnh xá Sư Trúc Hiên gồm có: Pháp sư và pháp sinh. Pháp sư mặc áo choàng đen, gọi là tăng y hay hắc y, khoác tấm vải đỏ bên ngoài tượng trưng cho giới y. Do không phải người xuất gia, nên họ dùng tấm vải đỏ với ý nghĩa tượng trưng, thay mặt Phật. Tất cả pháp sinh đều mặc áo đen. Trong quá trình hành lễ có sử dụng thêm pháp khí, chủ yếu gồm: 1 linh, 1 trống nhỏ, 1 mõ, 1 chung, 2 khánh (1 khánh lớn và 1 dẫn khánh), 2 song âm (1 lớn 1 nhỏ).

Ban nhạc lễ lại chia làm hai bộ phận: Tiền bằng và Hậu bằng.

Tiền bằng gồm các nhạc khí gõ, như: đại la (chiêng lớn), đại bát (cồng lớn), tiểu bát (cồng nhỏ), đại cổ (trống lớn), tô la, thâm ba, nguyệt la, cẩu tử la, mộc bản.

Hậu bằng gồm các nhạc khí hơi và dây, như: đại sô na, tiểu sô na, hoành địch, đàn nguyệt, đàn sến, tiêu, tam thập lục, nhị hồ, nhị huyền, trúc huyền, bản hồ. Trước đây, có sử dụng thêm hiệu đầu hay hiệu đồng (pháp loa - một nhạc khí thuộc họ hơi, ống dài, phổ biến trong khoa nghi Ứng phú hoặc Phật giáo Mật tông, Tây Tạng). Sau này, pháp loa thay thế bằng tù và hoặc hải loa (ốc biển).

Ban nghi lễ ở Khánh Vân Nam Viện còn gọi là Ban kinh sám cấu thành bởi các chủ khoa và thủ. Chủ khoa (tế tổ) mặc áo vàng (chủ khoa bào), đầu đội mũ từ hàng. Các thủ mặc áo xanh (đạo bào), đầu vấn khăn. Chủ khoa sử dụng hai chiếc chuông (linh), các thủ sử dụng bạt nhỏ, trống nhỏ, chuông.

Ban nhạc lễ hay bộ phận cổ nhạc gồm các nhạc khí: tiêu (4 cây), nhị hồ (1 cây), đại hồ1 (1 cây), da hồ (1 cây), đại cổ (1 chiếc), đàn tranh (1 chiếc), tần cầm (hay đàn sến 1 chiếc), dương cầm (hay tam thập lục: 1 chiếc), nguyệt (1 chiếc), điện cầm (guitar Hawai 1 cây), địch (2 chiếc) - ít dùng, chỉ xuất hiện trong lễ Khai quang.

Xét về nội dung khoa nghi, mặc dù là một tôn giáo bản địa, thổ sinh thổ dưỡng của người Hoa, song, Đạo giáo đã không ngừng tiếp thu văn hóa Phật giáo nhằm bổ sung, làm phong phú cho nội hàm tín ngưỡng của mình. Nhờ vậy, các khoa nghi Đạo giáo của người Quảng Đông ở khu vực Chợ Lớn hết sức phong phú về tiết mục. Hiện tại, cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ, gồm người Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến, Hải Nam và Khách Gia (Hẹ), trong đó có người Triều Châu và Quảng Đông còn bảo lưu hệ thống âm nhạc khoa nghi Phật giáo, Đạo giáo khá hoàn chỉnh, trở thành căn cứ quan trọng giúp quan sát, tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng này, đồng thời có thể làm phép so sánh giữa hai tôn giáo có tầm ảnh hưởng suốt chiều dài lịch sử văn hóa người Hoa.

 


1. Đại hồ ít khi xuất hiện với cơ cấu 2 cây trong một tổ chức, ở tang lễ thường kết hợp với Dương cầm (đàn Tam thập lục).

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 34
    • Số lượt truy cập : 7048980