Thông tin

SO SÁNH SỰ GIAO LƯU - TIẾP BIẾN PHẬT GIÁO

VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN Ở VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA

VÙNG MÊ-KÔNG

 

ThS. VÕ VĂN DŨNG(*)
ThS. ĐỖ THỊ THÙY TRANG(**)
CN. TRƯƠNG THỊ THẠNH(***)

 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tuy Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ và có mặt ở sáu nước dọc sông Mê-kông nhưng thời gian du nhập, sự giao lưu - tiếp biến ở mỗi nước lại hoàn toàn khác nhau. Phật giáo muốn được truyền bá sâu rộng vào mỗi nước thì phải đề cao sự “hòa hợp” giữa triết lý đạo Phật và phong tục tập quán bản địa; đó là một hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên, vấn đề mà chúng tôi đề cập đến ở đây là nội dung và mức độ tiếp nhận giữa Phật giáo và phong tục tập quán ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông ra sao? Đặc biệt là sự so sánh sự tương đồng và khác biệt về sự giao lưu - tiếp biến Phật giáo và phong tục tập quán ở Việt Nam và Campuchia.

2. SƠ NÉT VỀ SÔNG MÊ-KÔNG

Có thể khẳng định rằng, nền văn minh nhân loại được hình thành từ những dòng sông như: Donau dài 2.850 km hình thành nên các lâu đài cổ kính, quê hương của các đế vương ở châu Âu lâu đời, nơi đó đã sinh ra nhiều bậc thiên tài cho nhân loại; sông Hằng dài 3.090 km là nơi huyền bí thiêng liêng, là điểm hẹn của hàng ngàn người dân sùng tín đến cầu nguyện và tìm nước thánh; sông Nil dài 6.700 km chảy dưới chân các kim tự tháp vĩ đại cùng với các Pharaoh bí ẩn và nữ hoàng Cleopatra kiều diễm; sông Mê-kông dài 4800 km là biểu tượng của Phật giáo, đây là dòng sông mênh mông bí ẩn ngàn đời, nó ảnh hưởng trực tiếp đến một phần của đất nước và diện mạo của xã hội mà nó chảy qua trong đó có cả Việt Nam. Điểm đầu tiên của dòng sông Mê-kông cách Việt Nam hàng ngàn km, cao hơn mặt nước biển 5.000m, là nơi gom những hạt nước đầu tiên và tiếp tục gom nước ở những nơi mà nó đi qua để chảy về sông Tiền và sông Hậu ở Việt Nam. Cuộc hành trình dài trên 400km chảy qua các lãnh thổ như Trung Quốc 2.400 km, Myanm, Thái Lan, Lào 1800 km, Campuchia và Việt Nam chừng 220- 250 km. Tổng diện tích lưu vực sông Mê- kông ước tính khoảng 795.000 km2; trong đó, phần thượng nguồn Trung Quốc chiếm 161000 km2, đồng bằng sông Cửu Long là 39.000 km2  bằng 12% lãnh thổ Việt Nam. Lượng nước hàng năm của dòng sông đổ ra biển khoảng 775 tỉ m3 nước, đứng thứ 8 trên thế giới.

Lợi ích mà dòng sông Mê-kông mang lại cho các nước mà nó chảy qua không giống nhau nhưng nhìn chung là rất to lớn; lớn nhất là Lào, đến Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam. Thượng nguồn sông Mê- kông trồng tiểu mạch, lúa mì và chăn cừu, hạ nguồn trồng lúa nước và cây ăn trái và hàng ngàn héc ta rừng cây gỗ quý dọc hai bên dòng sông mà nó chảy qua. Lợi ích mà Mê-kông mang lại đâu chỉ dừng lại ở đó; mà nó còn cung cấp nước, giao thông đường thủy, thủy điện, du lịch, công nghiệp, nông nghiệp, thực phẩm với hàng ngàn loại cá, tôm, v.v… Mê-kông đâu chỉ mang lại lợi ích mà nó còn mang lại cho người dân nơi mà nó chảy qua những tai họa. Nạn lũ lụt bám dai dẳng người dân vào tận giấc ngủ, có những năm nước lũ đã nhấm chìm xóm làng ở các đồng bằng. Khi nước lũ rút đi, xóm làng ở đây trở nên điêu tàn. Tất cả của cải đều trở thành đối tượng hủy diệt của dòng sông, mặc dù ở đó không có một giọt mưa. Người dân sống ở lưu vực sông Mê-kông cũng luôn tự hỏi nước từ đâu đến, làm cách nào có thể ngăn được dòng nước và có thể bắt dòng sông chảy theo một hướng khác được không? Tất cả các câu hỏi đó trước đây đều không có câu trả lời nên người dân chỉ biết khắc phục thiệt hại bằng cách đơn giản và trông chờ vào thế giới khác. Tai họa ở lưu vực sông Mê-kông đâu chỉ là thừa nước mà còn là hạn hán, cháy rừng liên miên cũng làm cho người dân điêu đứng.

Những người dân lưu vực sông Mê-kông hiểu rằng, những sản phẩm mà họ làm ra không chỉ có sức lao động mà còn là sự ban tặng của tự nhiên. Từ bao đời nay, người dân lưu vực sông Mê-kông vẫn luôn tự hỏi nguồn nước mà họ sử dụng không biết bắt nguồn từ đâu nhưng các nước mà nó chảy qua lại có sắc thái văn hóa, phong tục tập quán, dân tộc khá đa dạng và phong phú nhưng lại không mang tính khác biệt rõ rệt. Tôn giáo lưu vực sông Mê-kông khá đa dạng nhưng phần lớn người dân nơi đây theo đạo Phật. Có thể nói, Mê-kông là dòng sông của Phật giáo, hầu hết chiều dài của nó là thế giới của phật tử thuộc nhiều chủng tộc như tộc Tạng, Bạch, Hoa, Thái, Miên, Lào, Khơ Me, Việt, v.v… Tuy họ cùng chung một dòng sông, một tôn giáo nhưng sự hiểu biết và giao lưu với nhau thì rất ít vì sự phức tạp của dòng chảy, chiều dài quá lớn của dòng sông và thuộc nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, sự giao lưu - tiếp biến của các nước có thể sẽ được diễn ra khi có chung biên giới và tại khu vực dòng chảy không có nhiều thác ghềnh hiểm trở.

Việt Nam và Campuchia là hai nước thuộc hạ nguồn sông Mê- kông, sở hữu chiều dài 600 km trong tổng số 4.800 km của dòng chảy. Đây là đoạn sông không có nhiều ghềnh thác hiểm trở nên việc giao lưu - tiếp biến diễn ra tương đối dễ dàng.

Sông Mê-kông chảy qua Campuchia đã chứng kiến những phút giây huy hoàng của dân tộc này cũng như sự lụi tàn rồi trôi vào quên lãng của nó. Trong Mê-kông ký sự có nói rằng; “Campuchia là một dân tộc bi thương và hiểm hách, một đất nước đã góp cho đời một nền văn minh Angkor Wat rực rỡ. Những gì diễn ra ở Angkor Wat đã khiến nhân loại khâm phục, lãng quên rồi bàng hoàng thương cảm, phục hồi rồi lụi tàn, phát triển rồi đói nghèo. Trước một dân tộc đầy bi thương và hiểm hách đó, dòng sông Mê-kông như một người mẹ hiền hòa xoa dịu những nỗi đau, an ủi, khích lệ cuộc sống của họ. Dòng Mê-kông chảy qua Campuchia không dài như Trung Quốc nhưng không vì vậy mà chịu khuất phục mà ngược lại nơi đây đã xuất hiện một Phnom Penh - thủ đô lớn nhất bên bờ sông Mê-kông. Lưu vực sông Mê-kông bao phủ hầu hết đất nước Campuchia, người dân không xem dòng nước của Mê-kông là thảm họa của tự nhiên mà họ coi đó là hiện tượng tuần hoàn theo một quy luật thần bí nào đó, có thể là do đức Phật và các thánh thần tạo ra. Do vậy, người dân cầu cứu sự trợ giúp của Phật Tổ và các thánh thần cũng là một cách để an tâm trong mùa lũ. Mê-kông đoạn Campuchia chỉ giúp cho người nghèo bớt khổ chứ chưa giúp họ trở nên giàu hơn. Những cuộc hành trình của dòng chảy Mê-kông qua 6 nước ven bờ, những ngọn núi vĩnh cửu, những thảo nguyên bát ngát xanh rờn, những sắc tộc và những nền văn hóa ven sông, những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ đến Phnompenh vào mùa mưa lũ, Mê-kông gửi bớt một lượng nước chảy qua dòng Tonle Sap nhờ biển hồ giữ hộ rồi chia thành hai nhánh chảy vào Việt Nam Bas- sac thượng chiếm 70 % lượng nước của sông Mê-kông chảy qua Trân Châu tức sông Tiền, Bassac hạ chiếm 30% lượng nước chảy qua Châu Đốc tức sông Hậu rồi cùng đổ nước vào biển qua 8 cửa sông. Sông Mê-kông chảy vào Việt Nam qua các tỉnh như Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng. Mê-kông chỉ dành chiều dài khoảng 230 km cho Việt Nam, chính xác sông Tiền là 229 km, sông Hậu là 227 km nhưng những đặc ân mà dòng sông này dành cho Việt Nam là vô kể, đây là vương quốc của lúa gạo, trái cây và thủy sản. Với 2 nhánh chính đổ vào Việt Nam ban đầu nhưng khi vào tới Việt Nam nó đã tạo nên vô số kênh dọc ngang chằng chịt bắt nguồn từ tự nhiên và cả sự can thiệp đầy sáng tạo của con người suốt hai thế kỷ. Song kỳ công đầu phải kể đến Nguyễn Văn Thoại -  người có công chinh phục vùng đất cuối cùng của đất nước. Tuy Bassac thượng chiếm tới 70 % lượng nước của Mê-kông nhưng khi vào đến Việt Nam, nó đã vội chia nước cho sông Hậu, khi vào tới Việt Nam, sông Tiền còn chia nước cho sông Hậu qua một số kênh rạch nữa trước khi tới được Vàm Lao dài 7 km, con sông lớn nhất chia nước của sông Tiền cho sông Hậu. Biên giới giữa Campuchia và Việt Nam không có thác ghềnh là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và tiếp biến văn hóa. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có giao thông đường thủy là hình thức thuận lợi nhất vì hệ thống sông ngòi dày đặc nối với nhau dọc theo sông lớn. Có thể nói rằng, người Chăm ở Việt Nam là một dân tộc có sự giao lưu tiếp biến với người người Campuchia nhiều nhất. Cả nước có khoảng 133.000 người Chăm sống tập trung ở các tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận và rải rác ở thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và An Giang. Riêng An Giang có khoảng 13.000 người, tất cả đều theo đạo hồi chính thống gọi là Islam. Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa, người Chăm theo hai tôn giáo chính là Balamon và đạo Hồi, đã được địa phương hóa gọi là hồi giáo Bani. Riêng người Chăm ở Nam Bộ đã thực hiện một cuộc di dân độc đáo chưa từng có trong lịch sử. Lúc đầu, họ rời tổ quốc sang Malaisia, Indonesia rồi chuyển về Campuchia, cuối cùng là về Việt Nam. Trái cây thốt nốt biểu tượng của Campuchia cũng có ở Việt Nam. Như vậy, dòng chảy của Mê-kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng trong quá trình gom nước đã mang theo một lượng phù sa lớn bồi đắp cho các đồng bằng ven sông nơi mà nó chảy qua.

3. NỘI DUNG SỰ GIAO LƯU - TIẾP BIẾN PHẬT GIÁO VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN Ở VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA VÙNG MÊ-KÔNG

Có thể khẳng định rằng, thời gian Phật giáo được truyền bá ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông là không giống nhau. Việc Phật giáo du nhập vào vùng đồng bằng sông Mê-kông ở Việt Nam đến nay có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất gắn với nền văn hóa Óc eo, và giai đoạn thứ hai gắn với thời kỳ Trịnh, Nguyễn phân tranh. Ở giai đoạn thứ nhất, các nhà khảo cổ cho rằng, Phật giáo đã du nhập vùng đồng bằng sông Mê-kông ở Việt Nam gắn với nền văn minh Óc eo. Theo L.Malleret (một học giả nổi tiếng người Pháp) cho rằng, nền văn hóa này là sản phẩm của một nhà nước cổ đại tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VI ở Đông Nam Á, từng được sử Trung Quốc ghi chép nhiều lần, đó là Vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, dựa trên những cổ vật để lại và văn hóa của tộc người Khmer, dân tộc Chăm hiện nay, chúng tôi cho rằng, giai đoạn đầu của văn hóa Óc eo thì Ấn độ giáo phát triển mạnh hơn Phật giáo, hướng truyền bá Ấn Độ giáo và Phật giáo giai đoạn này là từ Ấn Độ qua. Giai đoạn thứ hai, Phật giáo được truyền bá vào vùng đồng bằng sông Mê-kông ở Việt Nam vào thế kỷ thứ XVI gắn với giai đoạn lịch sử đầy biến động ở Việt Nam, đó là giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh. Giai đoạn này, Phật giáo được truyền bá theo bốn hướng khác nhau: (1) hướng theo những đoàn người di dân từ miền Thuận Quảng vào khai phá vùng đất mới, có cả những nhà sư người Việt và người Hoa. Theo sử liệu ghi lại, một số chùa cổ như chùa Đại Giác, Long Thiền (Đồng Nai), Kim Chương, Khải Tường, Từ Ân (Gia Định)…đều do các thiền sư từ miền Trung vào, theo hướng từ đường bộ và đường thủy từ Đồng Nai xuống Gia Định vào thế kỷ XVII, XVIII, XIX. (2) hướng theo đường thủy đưa đến thẳng vùng Đồng Nai, Gia Định, Mỹ Tho truyền đạo (1679). Đây là những nhà sư theo nhóm các tướng Trần Thượng Xuyên đến lập nghiệp ở Trấn Biên, Dương Ngạn Định đến Gia Định và phụ tá của Dương Ngạn Định là Hoàng Tiến dẫn đầu một nhóm đến Mỹ Tho. Những ngôi chùa cổ ở Mỹ Tho, Cai Lậy và các Phật đường sau này xuất phát từ các nhà sư Trung Quốc. (3) vào đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu người Quảng Đông, từ Chân Lạp sang vùng đất mới, đặt tên là Hà Tiên, dựng chùa Tam Bảo. Ngôi chùa này cho đến nay vẫn còn nổi tiếng. Đây là một trong những hướng du nhập của Phật giáo Trung Hoa vào Nam Bộ theo hướng ngược lại với cuộc di dân. (4) hướng Phật giáo Nam tông từ Campuchia, do phái đoàn truyền giáo của Hòa Thượng Hộ Tông (1893 - 1982) du nhập Nam bộ vào năm 1939. Sở dĩ chúng tôi cho rằng, Phật giáo du nhập vào Việt Nam vùng Mê-kông được chia thành hai giai đoạn là vì khi tiếp cận với chủ thể vùng Mê- kông ở Việt Nam, chúng tôi không tách rời chủ thể mà nghiên cứu chủ thể trong suốt chiều dài lịch sử vốn có của nó. Như vậy, theo chúng tôi Phật giáo đã được du nhập vào vùng đồng bằng sông Mê-kông ở Việt Nam thời kỳ văn hóa Óc Eo và thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh chỉ là sự bồi đắp thêm một lần nữa. Theo cách giải thích này thì Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam sau Campuchia nhưng lại có điểm tương đồng là Phật giáo du nhập sau Ấn Độ giáo.

Như vậy, thời kỳ đầu Phật giáo được truyền vào Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông thì sự tiếp nhận là tương đối giống nhau. Ban đầu Phật giáo là một tôn giáo thứ cấp và Ấn Độ giáo lại là tôn giáo chính thống. Tuy nhiên, trong quá trình lưu hành thì Ấn Độ giáo lại tỏ ra không phù hợp với phong tục tập quán và tâm lý của người dân bởi sự phân biệt đẳng cấp quá lớn, cùng với đó là sự bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội. Trong lúc đó, Phật giáo lại là một tôn giáo trái ngược với Ấn Độ giáo; Phật giáo đề cao sự bình đẳng, từ bi và giải thoát, tránh làm điều ác, tích cực hành thiện. Những quan điểm và giá trị đạo đức của Phật giáo rất gần gũi với phong tục tập quán của người dân Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông nên đã được người dân nơi đây đón nhận một cách nồng nhiệt. Bên cạnh sự tương đồng đó, trong sự giao lưu và tiếp biến của Phật giáo với phong tục tập quán ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông vẫn tồn tại những điểm khác biệt nhất định.

Sự giao lưu - tiếp biến Phật giáo và phong tục tập quán người Việt Nam vùng Mê-kông

Cũng giống như con người ở tất cả các vùng miền trong nước và trên thế giới, con người Việt Nam vùng Mê-kông trong quá trình tồn tại và phát triển đều phải có sự thỏa mãn giá trị vật chất lẫn tinh thần, trong đó “tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm”(1). Người dân vùng Mê-kông ở Việt Nam có phong tục thờ cúng tổ tiên, thờ những người khai hoang lập ấp, những người anh hùng dân tộc, những vị thần hộ mệnh, v.v… Phật giáo du nhập đã sớm đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân nơi đây bởi triết thuyết đạo đức nhân sinh của mình, đặc biệt là thuyết luân hồi, nghiệp báo và quan niệm về giải thoát. Người dân Việt Nam vùng Mê-kông đã nhìn thấy được những giá trị đạo đức Phật giáo có thể giúp họ bảo lưu, duy trì và chuyển tải những giá trị tốt đẹp của vốn có của họ. Tuy nhiên, Phật giáo chỉ có thể truyền bá rộng rải ở Việt Nam vùng Mê-kông khi nó biết chuyển mình theo hình thức thay đổi để phù hợp với phong tục tập quán nơi đây. Phong tục tập quán của người Việt Nam vùng Mê-kông được thể hiện qua đạo lý uống nước nhớ nguồn, truyền thống bao dung, nhân nghĩa, truyền thống yêu nước, phóng khoáng, đoàn kết, v.v…, tất cả được dung nạp vào Phật giáo. Phật giáo hết sức gần gũi với người dân nơi đây. Họ thờ Phật trong nhà và chung với bàn thờ tổ tiên. Nếu như Đức Phật ở các nơi được người dân tôn thờ với giáng vẻ uy nghi ngồi trên tòa sen thì ở Việt Nam vùng Mê-kông hình ảnh đức Phật là rất gần gũi với người dân. Bụt là Phật hóa thành, lấy sự giác ngộ để giải thoát “Phật – tiếng Phạn là Buddha (âm Hán Việt là Phật Đà, gọi tắt là Phật) nghĩa là bậc giác ngộ viên mãn. Từ tiếng Phạn Buddha, người Việt Nam ngày xưa đọc là Bụt”(2). “Trái lại cái tên Bụt, Tiên cũng là mượn của những thứ tôn giáo ngoại lai nhưng đã trở thành truyền thống, vì từ rất xưa, những tôn giáo này đã từng hoá thân vào đời sống dân tộc, chấp nhận những thứ thanh lọc gay gắt, trở thành tôn giáo chung chi phối tâm linh của cộng đồng”(3). “Các nhân vật vốn là biểu tượng của tôn giáo như Bụt, Tiên, Ngọc Hoàng, v.v… đều đã được cái nhìn thực tiễn của dân gian – dân tộc nhân cách hoá để trở thành lực lượng cứu tinh đối với mọi người dân cùng khổ”(4). Sự giao lưu - tiếp biến của Phật giáo và phong tục tập quán Việt Nam vùng Mê-kông được thể hiện ở những vấn đề như: giao lưu - tiếp biến giữa quan điểm giải thoát của Phật giáo hòa quyện với chủ nghĩa yêu nước, giao lưu - tiếp biến giữa tính táo bạo của phong tục tập quán của Nam bộ và giá trị đạo đức Phật giáo thể hiện trong việc giải phóng, giao lưu - tiếp biến giữa tính trọng nghĩa trong phong tục tập quán Nam bộ và sự “hòa hợp” trong giá trị đạo đức Phật giáo. Giao lưu - tiếp biến giữa tinh thần nhân ái trong phong tục tập quán của người dân Nam bộ và tư tưởng từ bi của Phật giáo.

Sự giao lưu - tiếp biến Phật giáo và phong tục tập quán người Campuchia vùng Mê-kông

Phật giáo từ Ấn Độ  truyền vào Campuchia rất sớm, có thể bắt đầu từ vua A Dục, nhà vua phái hai vị sư truyền giáo là Sona và Ut- tara sang đất Kim Địa (Suvannabhumi) hoằng pháp. Vị trí của Kim Địa là phiếm chỉ vùng đất từ Miến Điện cho tới Mã Lai Á. Theo sự khảo chứng của các học giả, người Ấn Độ “khoảng 400 – 500 trước Công nguyên” đã tới buôn bán vùng Đông Nam Á nhưng đến đầu công nguyên, di dân Ấn Độ mới bắt đầu tràn vào Đông Nam Á với quy mô lớn. Họ kinh doanh, buôn bán và truyền bá cả văn hóa, tôn giáo của mình vào các nước này, trước hết là Balamon   giáo; đến thế kỷ VI TCN, đạo Phật xuất hiện. Cũng giống như Việt Nam vùng Mê-kông, sự du nhập của tôn giáo Ấn Độ ban đầu là Ấn Độ giáo, nó chiếm vị trí thống trị trong xã hội, các vị vua được gọi là Varman, như Suryavarman II, Jayavarman VII. Triều đại Suryavarman II là triều đại mạnh nhất và thịnh trị nhất của đất nước Campuchia. Còn triều đại của vua Jayavarman VII trở đi, Phật giáo là tôn giáo lên cao của Campuchia, ngoại trừ một thời gian ngắn vào cuối thế kỷ XIII dường như đã được một sự hồi sinh ngắn ngủi của Ấn Độ giáo. Tuy nhiên phải đợi cho đến thế kỷ thứ XIV khi Phật giáo nguyên thủy thay thế Đại thừa thì Phật giáo mới đủ sức bác bỏ địa vị thống trị của Ấn Độ giáo và trở thành quốc giáo.

Cũng giống như sự giao lưu - tiếp biến Phật giáo và phong tục tập quán Việt Nam vùng Mê-kông, Phật giáo ở Campuchia cũng có sự giao lưu - tiếp biến hết sức mạnh mẽ với phong tục tập quán của người dân nơi đây. Tuy nhiên, Phật giáo ở Campuchia không chỉ dừng lại ở việc hòa trộn với phong tục tập quán, lấy phong tục tập quán làm chủ thể; mà ngược lại, Phật giáo đã trở thành chủ thể tại đất nước này. Trong một chừng mực nào đó, Phật giáo trộn lẫn với Ấn Độ giáo và phong tục tập quán. “Most Campuchians, whether or not they profess to be Buddhists (or Muslims), believe in a rich supernatural world. When ill, or at other times of crisis, or to seek supernatural help, Campuchians may enlist the aid of a practitioner who is believed to be able to propitiate or obtain help from various spirits”(5). Tạm dịch là (hầu hết người dân Campuchia, dù có hoặc không xưng là Phật tử (hoặc người Hồi giáo), tin vào trong một thế giới siêu nhiên phong phú. Khi bị bệnh, hoặc vào những thời điểm khác của cuộc khủng hoảng, hoặc để tìm sự giúp đỡ siêu nhiên, người Campuchia có thể tranh thủ sự trợ giúp của một học viên được cho là có thể làm cho thuận tiện hoặc có được sự giúp đỡ từ những thần linh khác nhau.)

Từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng tại Campuchia đều nhuốm màu đạo Phật. Phật giáo trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc này từ khi nó bước lên vũ đài chính trị. Để cũng cố nhà nước, kêu gọi sự đoàn kết nội bộ giai cấp cầm quyền, lựa chọn những người làm vua của vương quốc đều có sự tham dự của Phật giáo. Phật giáo đã gắn liền với sự hưng vong của vương quốc Campuchia, khi quốc gia hưng thịnh, Phật giáo được phát triển đến đỉnh cao còn khi độc lập chủ quyền đã bị mất thì Phật giáo cũng chịu chung số phận với đất nước. Sự có mặt của Phật giáo Campuchia đã góp phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa riêng của nước nhà. Ngôi chùa ngoài việc là trung tâm văn hóa của bản làng còn là nơi bảo vệ nền văn hóa lâu đời của dân tộc, bảo vệ và xây dựng vẻ đẹp cho cuộc sống mọi người. “Local spirits are believed to inhabit a variety of objects, and shrines to them may be found in houses, in Buddhist temples, along roads, and in forests. Several types of supernatural entities are be- lieved to exist; they make themselves known by means of inexplicable sounds or happenings. Among these phenomena are khmoc (ghosts), pret and besach (particularly nasty demons, the spirits of people who have died violent, untimely, or unnatural deaths), arak (evil spirits, usually female), neak ta (tsutelary spirits residing in inanimate ob- jects), mneang phteah (guardians of the house), meba (ancestral spir- its), and mrenh kongveal (elf-like guardians of animals)”(6). Tạm dịch là (những thần linh địa phương được cho là sống trong các vật thể khác nhau, và đền thờ để họ có thể được tìm thấy trong nhà, trong các đền thờ Phật giáo, dọc các con đường, và trong rừng. Một số loại thực thể siêu nhiên được cho là tồn tại; chúng làm cho mình nổi tiếng bằng các phương tiện âm thanh hoặc các sự việc xảy ra không thể giải thích được. Trong số những hiện tượng này là khmoc (bóng ma), pret và besach (đặc biệt là quỷ khó chịu, những linh hồn của những người đã chết một cách bạo lực, không kịp thời, hoặc chết không tự nhiên), arak (linh hồn ma quỷ, thường là phụ nữ), Neak ta (thần linh giám hộ cư trú trong các vô tri vô giác), phteah mneang (người giám hộ của ngôi nhà), MEBA (linh hồn tổ tiên), và kongveal mrenh (người giám hộ của những động vật.) 

Hầu hết người dân đều theo đạo Phật là một điều kiện để đất nước Campuchia ổn định xã hội, đoàn kết và đối phó với tự nhiên. “Aid in dealing with the spirit world may be obtained from a kru (shaman or spirit practitioner), an achar (ritualist), thmup (witch, sorcerer or sorceress), or a rup arak (medium, usually male). The kru is a kind of sorcerer who prepares charms and amulets... The kru are believed to have the power to prepare an amulet and to establish a supernatural link between it and the owner. A kru may acquire considerable local prestige and power. Many kru are former Buddhist monks”(7). Tạm dịch là (sự giúp đỡ trong việc đối phó với thế giới tinh thần có thể được lấy từ một Kru (shaman hoặc thần y), một achar (người tiến hành các nghi lễ), thmup (phù thủy) hoặc một arak rup (thần truyền tin, thường là nam giới). Các Kru là một loại phù thủy đã chuẩn bị bùa chú và bùa hộ mệnh ... Các Kru được cho là có sức mạnh để chuẩn bị một bùa hộ mạng và thiết lập một liên kết siêu nhiên giữa nó và người sở hữu. Một Kru có thể có được quyền lực đáng kể trong vùng. Nhiều Kru là tu sĩ Phật giáo trước đây). Phật giáo được người dân Campu- chia xem là tôn giáo tối thượng trong xã hội và xem Mê-kông là dòng sông của đức Phật. Từ Quốc vương, hoàng hậu đến người dân đều thành kính với Phật Tổ. Luật tục tôn kính thánh thần và Phật Tổ đã ăn sâu trong tiềm thức của mọi người dân Campuchia. Chùa chiền là nơi an ủi cuộc sống của mọi người dân; do vậy, từ việc xây nhà, cưới hỏi, văn hóa, lễ hội đều gắn với Phật giáo. “Nhà sư tham gia vào tất cả các hình thức lễ hội làng, lễ, kết hôn, và đám tang kể cả trong các nghi lễ đặt tên cho trẻ sơ sinh và trong các nghi lễ nhỏ khác hoặc nghi thức của điếu văn”(8). Người Campuchia mỗi khi xây nhà thường phải cúng nhiều lần, các nhà sư luôn có mặt trong các lễ cúng. Hôn lễ có ba ngày, ngày đầu tiên là vào lều diễn ra tại nhà gái. Ngày thứ hai là ngày chính, buổi sáng cúng tổ tiên và cầu nguyện, buổi chiều là cắt tóc rồi tới lễ tụng kinh. Ngày thứ ba là ngày bái đường và ca hát. Văn hóa và lễ hội được diễn ra hàng năm. Ở đó, văn nghệ dân gian và Phật giáo là hai yếu tố không thể thiếu. Ở Campuchia có khoảng 5.000 - 6.000 ngôi chùa, tất cả nam giới đều phải đi tu một lần trong đời, họ xem đó là hình thức bắt buộc để trả hiếu cho cha mẹ. Đi tu có thời hạn như tu ngày, tu tuần, tu tháng, tu năm nhưng phần lớn là tu theo tuần. Đại đa số người dân Campuchia theo đạo Phật, người theo đạo khác không đáng kể. Nhà chùa không chỉ chăm sóc cho người dân nơi đây phần hồn từ khi họ sinh ra đến lúc chết mà còn là chỗ dựa về vật chất trong những lúc nguy nan nên mỗi ngôi làng, mỗi nhánh sông đều có một ngôi chùa nào đó cho những kẻ lữ hành khi lỡ bước có thể vào đó để nghỉ ngơi. Như vậy, cuộc đời của người dân Campuchia thường gắn vơi 1 ngôi chùa nhất định. “Traditionally, each village has a spiritual center—a wat—where from five to more than seventy bhikkhus reside. A typical wat in rural Campuchia consists of a walled enclosure con- taining a sanctuary, several residences for bhikkhus, a hall, a kitchen, quarters for nuns, and a pond. The number of monks varies accord- ing to the size of the local population. The sanctuary, which contains an altar with statues of the Buddha and, in rare cases, a religious relic, is reserved for major ceremonies and usually only for the use of bhikkhus”(9). Tạm dịch là (theo truyền thống, mỗi làng có một trung tâm tinh thần - một ngôi chùa, nơi mà có từ năm đến hơn bảy mươi Tỳ kheo cư trú. Một ngôi chùa tiêu biểu ở vùng nông thôn Campuchia bao gồm một điện thờ tôn nghiêm có tường bao bọc xung quanh, một phòng lớn, nhà bếp, và một số khu vực ở cho các nữ tu, và một cái ao. Số lượng các nhà sư thay đổi tùy theo kích thước của dân số địa phương. Các khu thờ chính, có chứa một bàn thờ với hình tượng của Đức Phật, và trong trường hợp hiếm hoi, một di tích tôn giáo, được dành riêng cho các nghi lễ lớn và thường chỉ dành cho việc sử dụng của Tỳ kheo.) Có thể nói rằng, Phật giáo ở Campuchia là một trong những công cụ để thống nhất dân tộc. “Since the person of a monk is considered sacred, he is considered to be outside the normal civil laws and public duties that affect lay people”(10). Tạm dịch là (bởi vì một người của giới tu sĩ được coi là thiêng liêng, cho nên ông ta nằm trên pháp luật dân sự bình thường, và các nhiệm vụ công dân mà ảnh hưởng đến người dân). Nhà sư, các ngôi chùa và thầy bói được xem là rất quan trọng trong cuộc sống của người dân Campuchia dọc sông Mê-kông. Nhà sư, thầy bói được xem là người quyết quyết định quan trọng như hôn nhân, xây dựng một ngôi nhà mới, hoặc di chuyển đến một nơi nào đó. Nhà sư, thầy bói được dân chúng tin là có thể tiên đoán các sự kiện trong tương lai và để xác định ngày may mắn hay không may mắn cho các hoạt động khác nhau. Sự nhạy cảm của người dân Campuchia dọc sông Mê-kông với thế giới thần linh dẫn đến khi có việc gì đó người dân thường tham khảo ý kiến của Phật Tổ thông qua các nhà sư và thầy bói; thậm chí các quan chức địa phương muốn đưa ra kế hoạch phát triển cho địa phương trong năm tới, cũng phải coi ngày để tổ chức một buổi lễ để cầu xin Phật tổ - Người bảo vệ địa phương rồi mới đưa ra quyết định.

4. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG SỰ GIAO LƯU VÀ TIẾP BIẾN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA VÙNG MÊ-KÔNG

Sự tương đồng trong việc giao lưu- tiếp biến của Phật giáo Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông được thể hiện ở việc Phật giáo được truyền sau Ấn Độ giáo và đều thỏa mãn được nhu cầu về tinh thần của người dân.

Cả Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông đều có quá trình tiếp cận nền văn hóa từ Ấn Độ sang rất sớm nhưng ban đầu đều chịu sự tác động mạnh mẽ của Ấn Độ giáo. Phật giáo có thể đã tồn tại bên cạnh Ấn Độ giáo nhưng Phật giáo thuở sơ khai chỉ là một tôn giáo không chính thống. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Ấn Độ giáo đã chiếm được vị trí thống trị và nó chi phối xã hội. Người ta cho rằng, Phật giáo ở Óc Eo Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông tồn tại vào khoảng thế kỷ 5 và dưới hình thức là Đại thừa. Ban đầu Phật giáo được truyền vào Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông đều không mất đi diện mạo của nó so với Phật giáo ở Ấn Độ.

Tuy nhiên, để Phật giáo được in sâu bén rễ ở Việt Nam và Campu- chia vùng Mê-kông thì phải có sự giao lưu - tiếp biến với phong tục tập quán bản địa. Phật giáo được truyền bá vào nơi đây và được người dân tiếp nhận là vì triết lý của đạo Phật là giải thoát và hướng con người đến thiện tính. Sông Mê-kông đã mang ban tặng lương thực, thực phẩm và nguồn nước cho cuộc sống người dân sống quanh lưu vực của nó nhưng nó cũng nhấn chìm tất cả của cải của người dân và cũng có thể cướp đi mạng sống của bất kỳ ai trong mùa nước lũ nên người Việt Nam và Campuchia lưu vực sông Mê-kông vừa mang ơn vừa khiếp sợ. Trước đây, họ không thể lý giải được nguồn nước ở đâu mà nhiều đến thế, dù nơi họ ở không có một giọt mưa nhưng nước cứ cuồn cuộn đổ về. Không lý giải được các hiện tượng của tự nhiên dẫn đến con người đã thần thánh hóa nó theo hình thức sùng bái vật linh và xem dòng sông như một vị thần. Sự bất lực trước tự nhiên, con người chỉ biết cam chịu cùng với đó là sự phân biệt đẳng cấp của Ấn Độ giáo làm cho người dân Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông đã khổ lại càng khổ hơn. Với quan điểm giải thoát con người ra khỏi khổ đau trong thực tại nên khi Phật giáo du nhập vào, nó đã đáp ứng được nhu cầu của người dân. Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông có nhiều điểm chung như thuộc vùng hạ lưu sông Mê-kông; biên giới tiếp giáp nhau; khí hậu và thổ nhưỡng giống nhau nên hai nước có những điểm tín ngưỡng chung như: Tục thờ chúa xứ; tục thờ cúng tổ tiên; họ đều tin rằng, con người có hai phần, đó là linh hồn và thể xác, sau khi người chết đi thì thể xác sẽ trở về với đất nhưng phần linh hồn vẫn còn tồn tại để đầu thai kiếp khác. Sự phong phú về tín ngưỡng của người Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông được thể hiện như: tín ngưỡng tô tem, tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng Balamon giáo. Cuộc sống của người dân hai nước gắn bó mật thiết với một nền nông nghiệp lúa nước nên tín ngưỡng luôn phong phú, đang dạng. Họ luôn tin tưởng rằng, cuộc sống của họ luôn có một lực lượng siêu nhiên nào đó đang chi phối và luôn ảnh hưởng đến đời sống của họ. Và đó là một niềm tin không thể giải thích được, một niềm tin vừa nằm trong sâu thẳm của tâm hồn từng con người nơi đây. Có thể thấy rằng, tín ngưỡng đã ảnh hưởng rất sâu đậm vào đời sống văn hóa tinh thần của người sống ở lưu vực sông Mê-kông, nhất là những người nghèo, vùng sâu, vùng xa. Người ta luôn tin vào những vị thần bảo hộ cho họ khi bị thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, tai nạn, v.v… Khi đến vùng hạ lưu sông Mê-kông, Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người dân nơi đây trong việc đối phó với việc tác động của thiên nhiên, vừa là chỗ dựa tinh thần trong việc giải thoát những cùng quẫn của hiện thực xã hội đã và tác động đến mọi mặt của cuộc sống con người. Chính điều này, Phật giáo đã trở thành chất men kết dính, quy tụ mọi thành viên và hoạt động theo giáo lý, lễ nghi Phật giáo. Chính vì lẽ đó mà Đức Phật đã được người dân tôn kính.

Sự tôn kính đức Phật của người dân Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông là một trong những điểm tương đồng tiếp theo. Phật giáo khi truyền bá vào Việt Nam và Campuchia lưu vực sông Mê-kông, nó đã đáp ứng nhu cầu tinh thần. Người dân nơi đây phần chính sống bằng nghề trồng lúa nước, phụ thuộc vào thiên nhiên, nhưng với trình độ canh tác thô sơ, việc được hay mất vẫn đang còn rất bí ẩn, cho nên việc sùng bái thần linh là nhu cầu sinh hoạt và lợi ích của từng gia đình. Sau khi Phật giáo du nhập đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến đời sống tinh thần của người dân nơi đây. Các hoạt động tinh thần của người dân từ lễ hội của cộng đồng cho đến việc riêng của gia đình đều có sự chi phối của Phật giáo. Hiện nay, đối với dân tộc Khmer ở Việt Nam vùng Mê-kông, “Đạo Phật giáo tiểu thừa chi phối thế giới quan, nhân sinh quan, tập quán, lễ nghi và lối sống tộc người Khmer một cách sâu sắc”(11). Dân tộc Khmer ở Việt Nam vùng Mê-kông có những nét tương đồng với Campuchia ở chỗ: Từ khi sinh ra cho đến khi chết được hỏa thiêu và nhập cốt vào tháp đều có sự tham gia của các nhà sư. Trong cuộc sống, những việc lớn như làm nhà, cưới hỏi cho đến việc nhỏ như cày bừa, cấy hái trong gia đình thì điều hỏi ý kiến của các nhà sư trong chùa về những điều nên làm hay nên tránh. Triết lý Phật giáo đã ngấm sâu vào ý thức mỗi con người “Đạo Phật đã chi phối đời sống của người Khmer một cách trân trọng”(12). Ngôi chùa của người dân Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông không chỉ có chức năng tôn giáo mà còn có cả chức năng giáo dục, chức năng giao lưu văn hóa, phong tục tập quán. Phật giáo cho rằng, “mọi dục vọng, tội ác… đều có nguồn gốc xâu xa từ Vô minh - từ ngu dốt, vô học”(13), việc giáo dục được coi là chức năng quan trọng của Phật giáo. Chính điều đó, nó đã hòa lẫn với tinh thần ham học hỏi, tìm tòi của người dân Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông. Bên cạnh sự tương đồng trong sự giao lưu- tiếp biến của Phật giáo Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông thì vẫn có nhiều sự khác biệt nhất định.

Sự khác biệt trong việc giao lưu - tiếp biến của Phật giáo Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông được thể hiện ở những vấn đề sau:

Sự khác biệt của Phật giáo ở Việt Nam vùng Mê-kông và Cam- puchia có lẽ điều đầu tiên phải kể đến là vai trò, vị trí của nó trong chính trị.

Phật giáo truyền bá vào Việt Nam vùng Mê-kông trong quá trình tồn tại và phát triển thì nó đã nhanh chóng hòa trộn với tín ngưỡng, phong tục tập quán. Nếu như Phật giáo ở Campuchia trở thành quốc giáo thì Phật giáo ở Việt Nam đồng bằng sông Mê-kông là một tôn giáo bình đẳng với tất cả các tôn giáo khác. Với vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam nói chung và vùng Mê-kông nói riêng dễ dàng tiếp nhận những giá trị văn hoá tinh thần từ bên ngoài vào và dung hợp giá trị văn hóa của người Việt hình thành nên giá trị đạo đức đặc sắc của người Việt. “Người Việt Nam vốn có thái độ bao dung cởi mở về văn hóa và tín ngưỡng, ít có những thành kiến tôn giáo, sẵn sàng chọn lọc những nền văn hóa bên ngoài để tạo nên nét phong phú cho nền văn hóa dân tộc”(14). Nếu như sự du nhập Phật giáo lần thứ nhất diễn ra sự giao lưu với Ấn Độ, Campuchia thì cuộc du nhập lần thứ hai lại có sự giao lưu với Trung Quốc và sau này còn có cả vai trò của phương Tây. Như vậy, Phật giáo ở vùng Mê-kông trải qua quá trình đồng hành cùng lịch sử của dân tộc Việt Nam, Phật giáo có những bước thăng trầm lúc thịnh, lúc suy, cũng có thời kỳ được xem là quốc giáo. Những tư tưởng, văn hóa, đạo đức Phật giáo đã bắt rễ sâu rộng trên đất nước ta và trở thành một bộ phận quan trọng trong tư tưởng văn hóa, đạo đức của người Việt Nam chứ không phải là chủ thể của chính trị như ở Campuchia.

Khác với Việt Nam, Phật giáo ở Campuchia vùng Mê-kông trong quá trình tồn tại và phát triển đã đi vào cuộc sống của người dân và nó đã khẳng định được tầm quan trọng của mình trong quá trình chi phối nền chính trị của đất nước Campuchia. Các tu sĩ đã đứng ở vị trí vô cùng quan trọng trong xã hội, tu sĩ là người truyền bá văn hóa và tri thức cho người dân ngay tại chùa. Chính vì sự sùng tín Phật giáo của người dân Campuchia cùng với những giá trị đạo đức của nó phù hợp với phong tục tập quán của người dân Campuchia nên khi đã bén rễ nơi đây, nó đã từng bước khẳng định vị thế quan trọng của nó và “kẻ ngoại lai đã đồng hóa được chủ nhân của nó”. Phật giáo đã trở thành dòng chủ lưu trong văn hóa của người dân Campuchia; đồng thời nó cũng đã bước lên vũ đài chính trị và trở thành quốc giáo, được ghi trong hiến pháp của nước Campuchia. Hiện nay, đứng đầu nhà nước Campuchia là Quốc vương, Quốc vương và hoàng hậu đều thành kính trước Phật Tổ. Chính vì thế, khi đến đất nước Campuchia, chúng ta dễ nhận thấy tại các công viên, con đường, cây cầu, nhánh sông, v.v… đều có nhà chùa hoặc biểu tượng của Phật giáo. Xuất phát từ mục đích của đạo Phật và cũng vì lợi của quốc gia, cho nên Phật giáo đã hợp tác với vương quyền, trở thành một công cụ hiệu lực cho việc thống nhất tư tưởng ở Campuchia. Với tất cả sự nỗ lực không mệt mỏi trong các hoạt động của mình, Phật giáo trong thời kỳ hưng thịnh của các vương triều Campuchia đã được đưa lên địa vị độc tôn và với vai trò đó, nó đã có những đóng góp quan trọng vào việc củng cố nhà nước, vun đắp sự đoàn kết trong nội bộ giai cấp cầm quyền; thậm chí góp phần lựa chọn cả những con người ngồi trên ngai vàng của vương quốc, cùng với nó là sự tác động đến văn hóa - xã hội.

Sự khác biệt trong việc giao lưu - tiếp biến của Phật giáo và phong tục tập quán ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông được thể hiện trong văn hóa.

Sự khác biệt về vai trò, vị trí của Phật giáo trong chính trị ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông đã quy định sự khác biệt trong văn hóa của người dân nơi đây. Nếu như ở Việt Nam vùng Mê-kông, Phật giáo hòa cùng với các tôn giáo khác để làm phong phú cho văn hóa dân tộc, trong đó văn hóa dân tộc là chủ lưu; thì Phật giáo ở Campu- chia trong quá trình tồn tại Phật giáo đã trở thành “cốt lõi của văn hóa” nơi đây. Phật giáo du nhập vào vùng Mê-kông ở Việt Nam đã góp phần làm phong phú cho văn hóa dân tộc Việt Nam. “Người Việt Nam vốn có thái độ bao dung cởi mở về văn hóa và tín ngưỡng, ít có những thành kiến tôn giáo, sẵn sàng chọn lọc những nền văn hóa bên ngoài để tạo nên nét phong phú cho nền văn hóa dân tộc”(15). Phật giáo hòa mình cùng phong tục tập quán bản địa đã góp phần tôn tạo nền đạo đức truyền thống của dân tộc đó là chủ nghĩa yêu nước. Nguyễn Trãi đã vận dụng tinh thần ấy trong bài Bình Ngô Đại Cáo, đã viết “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”(16). Trong các cuộc kháng chiến, Phật giáo đã hòa trộn với tinh thần yêu nước của dân tộc, đứng lên để giải thoát như hình ảnh tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã đi vào lòng dân tộc Việt Nam. Con người Việt Nam nói chung, vùng Mê-kông nói riêng luôn có truyền thống yêu nước, thương người, khoan dung, độ lượng và quan điểm diệt khổ, cứu người, từ bi, hỷ xả… Sự hướng thiện của Phật giáo đã hòa nhập với truyền thống đó để góp phần làm cho văn hóa Việt Nam ngày một phát triển. Nếu như Phật giáo ở Việt Nam vùng Mê-kông là một bộ phận của văn hóa Việt Nam thì Phật giáo ở Campuchia là chủ thể của nền văn hóa nơi đây.

Sở dĩ Phật giáo trở chủ thể của văn hóa ở đất nước Campuchia là vì vai trò, vị thế của nó. Khi Phật giáo truyền bá vào Campuchia vùng Mê-kông, nó không chỉ xoa dịu được nỗi đau về tinh thần mà còn đáp ứng được nhu cầu về vật chất nơi đây. Các tu sĩ Phật giáo đã thực hiện một số chức năng trong cuộc sống và các hoạt động văn hóa. Các tu sĩ có mặt ở tất các lễ hội, từ làng xã đến tỉnh, từ lễ kết hôn đến đám tang, thậm chí là lễ đặt tên cho trẻ sơ sinh… Trong các lễ này, nhà sư có chức năng chính là nói lời cầu nguyện sự bình yên. Bên cạnh đó, nhà sư còn đóng vai trò là một nhà tâm lý thậm chí là một thầy bói, v.v… Nhà sư có vai trò to lớn trong quá trình truyền tải văn hóa. Họ trở thành mẫu người lý tưởng cho các Phật tử noi theo. Hầu hết các lễ hội lớn của đất nước Campuchia hiện nay đều liên quan đến Phật giáo và hầu hết người dân Campuchia dù là Phật tử hay không phải là phật tử thì họ vẫn tin rằng, có một thế giới song song với thế giới thực tại đang tồn tại. Do vậy, khi bị khủng hoảng về tinh thần hay gặp khó khăn trong cuộc sống thì họ vẫn nhờ đến vai trò của Phật giáo mà người trược tiếp được nhờ là các nhà sư. Nếu như Phật giáo du nhập vào Việt Nam vùng Mê-kông đã bị biến đổi thì Phật giáo từ khi truyền bá vào Campuchia đến nay vẫn giữ được bản sắc ban đầu vốn có của nó (ở Campuchia, Phật giáo vẫn là tôn giáo nguyên thủy). Chính vì sùng bái Đức Phật nên ở khắp mọi nơi từ trong nhà cho đến các công viên, từ thành phố đến các vùng sâu đều có sự hiện diện của Đức Phật. Kiến trúc của Campuchia cũng chịu sự chi phối của Phật giáo. Phật giáo khi du nhập vào Campuchia vùng Mê-kông đã góp phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc và ngôi chùa ngoài việc là trung tâm văn hóa của bản làng còn là nơi bảo vệ nền văn hóa lâu đời của dân tộc, bảo vệ và xây dựng vẻ đẹp cho cuộc sống mọi người dân Campuchia.

Sự khác biệt trong giao lưu - tiếp biến của Phật giáo và phong tục tập quán ở Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông còn được thể hiện trong giá trị đạo đức. Không ai có thể phủ nhận được rằng, Phật giáo luôn hướng con người đến việc hoàn thiện nhân cách của mình thông qua tư tưởng “từ bi hỷ xả”. Tuy nhiên, nếu đạo đức Phật giáo ở Việt Nam vùng Mê-kông là một bộ phận cấu thành đạo đức của dân tộc Việt Nam thì đạo đức Phật giáo ở Campuchia lại trở thành nội dung cốt lõi của người dân nơi đây.

Người Việt Nam vùng Mê-kông, một mặt phải đối phó với tự nhiên như đắp đập, đào mương dẫn nước tưới tiêu, đắp đê phòng chống bão lụt; mặt khác luôn phải đối phó với kẻ thù xâm lược. Do vậy, bản chất của người Việt Nam nói chung và người Việt Nam vùng Mê-kông nói riêng là luôn yêu chuộng hòa bình, có tinh thần nhân ái, đoàn kết, lối sống giản dị và biết yêu thương con người. Đạo đức Phật giáo đề cao nếp sống trung đạo, không ham mê dục lạc, sống giữ năm giới, mười thiện, dạy con người sống có ích, cống hiến cho gia đình, bản thân, xã hội nên dễ dàng hòa nhập cùng nếp sống cần cù, tiết kiệm, chịu thương chịu khó của người Việt Nam vùng Mê-kông. Sự dung hợp đó của đạo đức Phật giáo và đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam đã góp phần xây dựng nên những giá trị đạo đức truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Đây là nhân tố quan trọng định hướng tư tưởng, tình cảm, hành động của con người Việt Nam trong quá khứ, lan tỏa đến hiện tại và hướng đến tương lai. Đạo đức Phật giáo trở thành một nhân tố góp phần làm nên những con người vĩ đại biết sống vì nghĩa, vì đồng bào, vì dân tộc, bất kể con người đó xuất thân từ tầng lớp, giai cấp nào trong xã hội “Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đức và văn hóa quý báu của dân tộc”(17). Tiếp thu, chắt lọc những giá trị đạo đức của nhân loại trong đó có giá trị đạo đức Phật Giáo để bồi đắp cho giá trị đạo đức vốn có của dân tộc Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “mỗi người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi”(18). Những giá trị của đạo đức Phật giáo đã dung hợp với đạo đức truyền thống Việt Nam góp phần xây dựng đạo đức Việt Nam phong phú và tiến bộ. Trong Nghị quyết Đại hội VII (1991) nhận định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Nếu như đạo đức Phật giáo ở Việt Nam vùng Mê-kông trở thành một trong những nhân tố bồi đắp cho người dân nơi đây thì ngược lại đạo đức Phật giáo ở Campuchia lại trở thành đạo đức chính thống.

Nếu như chúng ta nghiên cứu suốt chiều dài lịch sử đất nước Cam- puchia thì sẽ dễ dàng nhận thấy rằng, xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước này thường gắn với hai tôn giáo là Ấn Độ giáo và Phật giáo. Vương quyền và thần quyền cùng tồn tại một cách song hành, thậm chí thần quyền còn lấn át vương quyền thì lẽ cố nhiên toàn ý thức xã hội cũng chịu sự chi phối bởi yếu tố tôn giáo và đạo đức cũng không ngoại lệ. Ở Campuchia, hơn 85% dân số cả nước theo Phật giáo; do vậy, trong hiến pháp của Campuchia có điều lệ “nhân dân tự do tính ngưỡng”, và quy định “Phật giáo là quốc giáo”. Quốc vương là người tượng trưng cho người ủng hộ duy trì tôn giáo”(19), và là người ủng hộ Phật giáo có hiệu lực nhất. Đại đa số thanh thiếu niên trong cả nước đều cần phải xuất gia một lần, để tiếp thu sự huấn luyện tốt lành của Phật giáo, trải qua một khoảng thời gian nhất định rồi hoàn tục. Ngay cả quốc vương cũng phải có một thời gian từ bỏ ngai vàng để xuất gia đi tu ở chùa. Nền giáo dục đạo đức Campuchia từ khi Phật giáo thống trị đất nước, trừ giai đoạn nội chiến thì đạo đức Phật giáo trở thành thước đo giá trị cho toàn bộ xã hội. Nó được thể hiện ngay cả trong cách chào hỏi của người dân đối với nhau như: nếu là người cùng tuổi và có vai vế ngang nhau thì chắp tay ngang ngực và cúi người xuống; nếu là người cao tuổi hơn thì chắp tay cao hơn và cúi người thấp hơn nhưng không được chắp tay cao quá đầu, vì chỉ có lạy Phật mới chắp tay quá đầu. Từ cách hành lễ trong chào hỏi đến việc thể hiện những cử chỉ cao đẹp trong cuộc sống thì người Campuchia vẫn luôn lấy đạo đức Phật giáo là thước đo cao nhất. Và đạo đức Phật giáo được người dân Campuchia đưa vào trường học và xem nó như một môn học bắt buộc đối với mọi người dân.

5. KẾT LUẬN

Có thể thấy rằng, sông Mê-kông chảy qua sáu nước; mỗi nước có những tập tục, văn hóa, tính ngưỡng, tôn giáo khác nhau nhưng hầu hết chiều dài mà nó chảy qua là thế giới của phật tử, của nhiều chủng tộc khác nhau. Tuy dân cư sinh sống ở lưu vực sông Mê-kông cùng uống chung dòng nước từ sông Mê-kông, cùng chung một tín ngưỡng và người dân nơi đây đều có điều kiện kinh tế, khoa học kỹ thuật chậm phát triển so với thế giới nhưng con người sống dọc sông Mê-kông hiểu nhau còn quá ít. Nguyên nhân chính là do chiều dài của dòng sông quá lớn và thuộc nhiều quốc gia khác nhau cùng với đó là sự hiểm trở của nó.

Việt Nam và Campuchia vùng Mê-kông được xem là vùng hạ lưu sông Mê-kông. Sự ban tặng của dòng sông Mê-kông cho hai nước là tương đối giống nhau và quá trình Phật giáo du nhập đều diễn ra những năm đầu công nguyên, ban đầu Phật giáo là tôn giáo thứ yếu đứng sau Ấn Độ giáo trong xã hội. Quá trình Phật giáo du nhập đã có sự hòa trộn với phong tục tập quán bản địa. Tuy nhiên nếu ở Việt Nam vùng Mê-kông, Phật giáo đã có sự hòa trộn với phong tục tập quán và các tôn giáo khác nhằm làm phong phú thêm cho văn hóa, đạo đức con người Việt Nam nói chung và vùng Mê-kông nói riêng; thì ở Campuchia, Phật giáo khi được truyền bá vào, nó đã được đón nhận một cách nồng nhiệt và được người dân nơi đây đưa lên làm quốc giáo. Khi Phật giáo đã thấm sâu vào máu thịt của người dân Campu- chia và được chính quyền gắn Phật giáo với chính trị thì lẽ cố nhiên, văn hóa, đạo đức, lối sống của xã hội đều thể hiện tinh thần của Phật giáo. Như vậy, Phật giáo ở Việt Nam vùng Mê-kông đã trải qua nhiều sự dung hợp và biến đổi, còn ở Campuchia thì Phật giáo vẫn giữ được dáng vẻ nguyên thủy của nó.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

+ Tiếng Việt

1. Thích Minh Châu (giới thiệu) nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học.

2. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục.

3. Trương Văn Chung (2009), Những biến thể của Phật giáo nguyên thủy ở các quốc gia Đông Á (trường hợp Trung Quốc và Việt Nam). Tháng 5/ 2009. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Việt Nam.

4. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơme Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại), Nxb. Tôn Giáo và Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

5. Võ Văn Dũng (2012), Một số giá trị đạo đức Phật giáo và ý nghĩa của nó hiện nay, Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Số 1.

6. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb. Hà Nội.

7. Đông Nam Á tế á đích tông giáo dữ chính trị.

8. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục.

9. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phân viện nghiên cứu Phật học (2012), Từ điển Phật học Hán- Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, tập 10, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

11. Huệ Thiện (2003), Đức Phật qua thành ngữ và tục ngữ Việt Nam – Nguyệt san Giác ngộ (Phụ trương nguyên cứu của báo Giác Ngộ), Số 84.

12. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ (1988), Nxb. Tổng hợp Hậu Giang.

+ Tiếng Anh

14. De San Antonio, Gabriel Quiroga (1998), A Brief and Truthful Relation of Events in the Kingdom of Cambodia. Thailand: White Lotus.

15. Chandler, David (1994), A History of Cambodia. Bangkok Thailand: White Lotus.

16. David Chandler (2007), A History of Cambodia, 4th Edition, Westview Press.

17. Ian Harris (2008), Cambodian Buddhism: History and Practice, University of Hawaii Pr; 1 New edition.

18. Helen Ibbitson Jessup (2011), Temples of Cambodia: The Heart of Angkor, Vendome Press; 1st edition.

19. Peter North (2005), Culture Shock! Cambodia: A Survival Guide to Customs and Etiquette (Culture Shock! A Survival Guide to Customs & Etiquette), Graphic Arts Center Publishing Company.

20. Osborne, Milton E (2000), The Mê-kông. Australia: Allen & Unwin.

21. Osborne, Milton E (2000), Politics and Power in Cambodia. Australia: Longman.

22. Nick  Ray,  Greg  Bloom  (2012),  Lonely  Planet:  Cambodia (Travel Guide), Lonely Planet; 8 edition.

23. Dawn Rooney (2011), Angkor: Cambodia’s Wondrous Khmer Temples (Sixth Edition) (Odyssey Illustrated Guides), Airphoto Inter- national Ltd.; Sixth Edition edition.

24. Graham Saunders (2008), Cambodia - Culture Smart!: the es- sential guide to customs & culture, Kuperard.

25. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Campuchian Life”. Campuchia: A Country Study. Re- search completed December 1987.

26. Donald K. Swearer (1995), Buddhist World of Southeast Asia (Suny Series in Religion), State University of New York Press; Re- vised edition.

 


(*). Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Nha Trang.

(**). Trường Đại học Tài chính Kế toán, 103 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Trần Phú, Tp. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

(***). Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Kon Tum.

1. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb. Hà Nội, tr. 14.

2. Huệ Thiện (2003), Đức Phật qua thành ngữ và tục ngữ Việt Nam – Nguyệt san Giác ngộ (Phụ trương nguyên cứu của báo Giác Ngộ), Số 84, tr 36.

3. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, tr 50.

4. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, tr 1635.

5. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Cam- puchian Life”. Campuchia: A Country Study. Research completed December 1987.

6. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Campuchian Life”. Campuchia: A Country Study. Research completed December 1987.

7. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Campuchian Life”. Campuchia: A Country Study. Research completed December 1987.

8. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Campuchian Life”. Campuchia: A Country Study. Research completed December 1987.

9. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Campuchian Life”. Campuchia: A Country Study. Research completed December 1987.

10. Source: Federal Research Division. Russell R. Ross, ed. “Role of Buddhism in Campuchian Life”. Campuchia: A Country Study. Research completed December 1987.

11. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ (1988), Nxb. Tổng hợp Hậu Giang, tr 71.

12. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ (1988), Nxb. Tổng hợp Hậu Giang, tr 72.

13. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơ me Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại), Nxb. Tôn Giáo và Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr 95.

14. Thích Minh Châu (giới thiệu) nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học, tr 52.

15. Thích Minh Châu (giới thiệu) nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học, tr 52.

16. Thích Minh Châu (giới thiệu) nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học, tr 55.

17. Thích Minh Châu (giới thiệu) nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học, tr 194.

18. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, tập 10, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr 666.

19. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, tập 10 Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 252.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 24
    • Số lượt truy cập : 6795988