SƠN MÔN LÂM TẾ ĐÔNG KHÊ, HẢI PHÒNG
NGUYỄN LÂM
Sơn môn là gì?
Từ điển Phật học Huệ Quang định nghĩa: "1. Sơn môn: (Tam môn). Cổng chính (Tam quan) của các chùa viện, chùa viện phần nhiều ở núi rừng, nên có tên này. Thông thường, các chùa đều có ba cửa, tượng trưng cho Tam giải thoát môn (Không môn, Vô tướng môn, Vô tác môn, nên gọi là Tam môn hoặc chỉ có một cửa cũng gọi là Tam môn. 2. Sơn môn (sơn tự). Từ chung gọi là chùa viện, vì từ xưa đến nay chùa viện phần nhiều ở núi rừng, nên lấy sơn môn làm tên gọi khác nhau của chùa viện. Từ đó, người sau tạo lập chùa viện ở đồng bằng hay giữa đô thị cũng gọi là sơn môn. Ngoài ra, tất cả những người tu hành trong ngôi chùa từ trụ trì trở xuống cũng đều được gọi là sơn môn.
Sơn môn do một vị Tổ sư sáng lập ra và lập ra bản thanh quy, sau đó truyền thừa cho các đệ tử đời sau. Theo thời gian, Sơn môn không ngừng lớn mạnh về số lượng Tăng, Ni cũng như số lượng các tự, viện. Những Tăng, Ni trong Sơn môn dù ở bất cứ một cương vị nào hay ở nơi đâu cũng luôn hướng về cội nguồn của Tổ tông (những người cùng một Sơn môn trong Phật giáo được gọi là Đạo mạch). Đặc biệt, để thể hiện lòng thành kính đối với chư vị Tổ Sư, các Tăng, Ni luôn tâm niệm giữ gìn phát huy Đạo mạch, “Tông phong, Thanh quy” của Sơn môn mình, nhằm thể hiện tinh thần “Uống nước nhớ nguồn”, như ca dao Việt Nam có câu:
“Cây có cội mới trổ cành xanh lá
Nước có nguồn mới tủa khắp rạch sông
Làm người có tổ, có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”.
1. Như Hiện Thiền sư –Tổ khai sáng sơn môn
Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Thiền sư Chuyết Chuyết (1590-1644) cùng các đệ tử người Hoa đứng đầu là Minh Hành (1596 – 1659), và đệ tử người Việt đứng đầu là Minh Lương đã truyền bá thành công dòng thiền Lâm Tế vào Đàng Ngoài Đại Việt, truyền thừa theo bài kệ của Trí Bản Đột Không.

Nhục thân Xá lợi của Thiền sư Chuyết Chuyết
Phật sử Việt Nam ghi nhận Hòa thượng Minh Lương Mãn Giác (?-1675) quê thôn Lương Đa, xã Trầm Lộng, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội, trụ trì chùa Côn Cuơng, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đã có công rất lớn cùng các học trò (đứng đầu là Thượng thủ Chân Nguyên Tuệ Đăng) truyền bá dòng thiền Lâm Tế Chuyết Chuyết khắp vùng Quế Võ, Lương Tài (tỉnh Bắc Ninh), Văn Lâm, Văn Giang (tỉnh Hưng Yên), Thanh Hà (tỉnh Hải Dương) tới non thiêng Yên Tử (tỉnh Quảng Ninh) với các chùa Quỳnh Lâm, Long Động, Hoa Yên, Hồ Thiên... vốn là những trung tâm lớn của Thiền phái Trúc Lâm.
Ngài Chân Nguyên (1647-1726) có nhiều đệ tử xuất sắc, trong đó có hai vị nổi bật nhất là Như Trừng Lân Giác (1696-1733) và Như Hiện Nguyệt Quang (?-1765), đời thứ 37, tông Lâm Tế Việt Nam.
Như Trừng Lân Giác (1696-1733), con của Phổ Quang vương, phò mã của vua Lê Hy Tông, sớm từ bỏ quan trường, cải gia vi tự ở phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, rồi tìm lên Yên Tử theo học Chân Nguyên Hòa thượng. Sau khi đắc pháp trở về trụ trì chùa Liên Tông, Hà Nội. Tại đây, ông hoằng hóa rất mạnh, đồ chúng đến tham học rất đông. Do đó, lập thành một phái lấy hiệu là Liên Tông, sau phát triển thành sơn môn Lâm Tế Liên Phái.
Như Hiện Nguyệt Quang (?-1765) sinh ở làng Đường Hào, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, thuộc con nhà quý phái. Năm 16 tuổi, ngài đến chùa Long Động trên núi Yên Tử xin thụ giáo với Hòa thượng Chân Nguyên – người được coi là bó đuốc của thiền học Việt Nam thế kỷ XVII. Khi Hòa thượng Chân Nguyên viên tịch, Như Hiện được truyền y bát của phái Trúc Lâm Yên Tử, kế thừa thầy chăm sóc các ngôi chùa Long Ðộng, Quỳnh Lâm.
Hòa thượng An Thiền Phúc Điền trong sách Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ, trang 19a-19b, viết: “Hải Dương tỉnh, Đông Khê xã, Nguyệt Quang thiền tự khai sơn thủy tổ, đặc phong Tăng chính Thuần Giác Như Hiện Tổ sư. Hạ nhị truyền Tịnh Minh Tính Tĩnh Huệ Không Thiền sư. Hạ tam truyền Tịnh Bình Hải Trạm Thiền sư. Hạ tứ truyền Tịch Chiếu Hải Triêm Thiền sư. Hạ ngũ truyền Đông Triều Quỳnh Lâm tự ân tứ đao điệp Hải Duyệt Hòa thượng. Hạ lục truyền Tịch Diệu Thiền sư”.
Theo đó ta biết, xuất phát từ Tổ Thông Giác Như Hiện - Tổ khai sơn chùa Nguyệt Quang, Hải Dương (nay là Hải Phòng), đời thứ 37 Lâm Tế có 3 nhánh truyền đến 3 nơi, trong đó:
“Nhánh thứ nhất, tuần tự truyền xuống tại bản tự (chùa Nguyệt Quang) và đến đời thứ 5 thì được Hòa thượng Hải Duyệt truyền qua chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, Quảng Ninh, rồi đệ tử của ngài Hải Duyệt là Thiền sư Tịch Diệu kế tục truyền thừa tại đó”.
Chúa Trịnh Giang (1729-1740) và vua Lê Ý Tông rất tôn phục Thiền sư Như Hiện. Năm Canh Tuất (1730), chúa Trịnh Giang ra lệnh cho trùng tu hai chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm do Thiền sư Như Hiện chăm sóc. Chúa ra lệnh cho dân ba huyện Đông Triều, Thủy Đường, Chí Linh góp sức trùng tu các chùa này, gần một vạn người làm việc suốt một năm mới trùng tu xong hai chùa lớn này.
Năm 1737, chúa Trịnh Giang cho đúc một pho tượng Phật rất lớn để thờ ở chùa Quỳnh Lâm.
Năm 1748, Như Hiện được vua Lê Hiến Tông phong chức Tăng thống và năm 1757 vua ban hiệu Tăng Thống Thuần Giác Hòa Thượng. Ngài sống rất đạm bạc, ăn mặc giản dị, nhưng các vị đại thần đều quý trọng.
Ngày mùng 6 tháng 9 năm Ất Dậu, Hòa thượng gọi đồ chúng lại từ biệt rồi tịch. Môn đệ xây tháp thờ tại chùa Nguyệt Quang. Bia trên mặt tháp có kê danh sách hơn 60 vị đệ tử đứng đầu là Thiền sư Tính Tỳ, tiếp đó là Tính Thiện, Tính Tâm, Tính Trung, Tính Tĩnh, Tính Thuyên, Tính Huệ... Thiền sư Tính Tĩnh là vị được truyền y bát Trúc Lâm, thay thế Ngài chăm lo các ngôi chùa nêu trên.
Như vậy, ngài Như Hiện và đệ tử đắc pháp Tính Tĩnh (1692-1773) đã xây dựng và phát triển chùa Nguyệt Quang thành Sơn môn Lâm Tế Chuyết Chuyết đầu tiên tại Hải Phòng từ nửa sau thế kỷ XVIII, với Tổ đình là chùa Đông Khê (Nguyệt Quang tự) tọa lạc tại phường Đông Khê, Quận Ngô Quyền1. Đến nay, Sơn môn đã có hơn 40 chùa.
2. Chốn Tổ Nguyệt Quang, Đông Khê, Hải Phòng
Nguyệt Quang tự, một ngôi chùa cổ của Hải Phòng, chốn Tổ của Sơn môn danh tiếng đã lưu dấu Thiền sư Tăng thống Như Hiện.
Am thờ Phật thuở hồng hoang là tiền thân của chùa Đông Khê ngày nay. Đến thời nhà Trần (1225-1400), chùa được dựng khang trang, trở thành cơ sở lớn của dòng thiền Phật giáo Trúc Lâm. Tam Tổ của dòng thiền Trúc Lâm đã từng qua đây giảng kinh, thuyết pháp. Hiện chùa vẫn còn tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông, người sáng lập dòng thiền này. Chùa bị giặc Minh (1407-1427) tàn phá và được khôi phục thời Mạc Phúc Hải (1541-1546), vị trụ trì là Phổ Hằng, cùng dân làng phục dựng lại và lại bị đổ nát vào năm 1654 thời vua Lê Thần Tông (1649-1662). Đến thời vua Lê Hy Tông (1676-1705) sau khi đắc pháp với Sư tổ Chân Nguyên Tuệ Đăng đời pháp Lâm Tế thứ 36, Thiền sư Như Hiện về trụ trì đã khai hóa chùa Đông Khê trở thành một chốn Tổ lớn, có ảnh hưởng rộng, đào tạo nhiều tăng tài. Ngài đã độ được 67 đệ tử xuất gia và các vị này đã trụ trì tới 40 chùa. Thiền sư tinh thông đạo pháp, kiên trì giới hạnh, được nhân dân, sĩ thứ vô cùng kính trọng.

Chùa Nguyệt Quang - Tổ đình sơn môn Đông Khê
Những bảo tháp lưu giữ xá lợi ở chùa Đông Khê hiện còn:
1) Nam mô Tịch Quang Tháp - Chân Nguyên Tổ sư hóa thân Bồ tát (28/9).
2) Nam mô Tịch Quang Tháp - Như Hiện Tổ sư hóa thân Bồ tát (16/9).
3) Nam mô Tịnh Minh Tháp - Tính Tĩnh Tổ sư hóa thân Bồ tát (10/3).
4) Nam mô Tịnh Bình Tháp - Hải Trạm Tổ sư hóa thân Bồ tát (10/10).
5) Nam mô Tịnh Nhiên Tháp - Hải Chiên Tổ sư hóa thân Bồ tát (16/9).
6) Nam mô Huệ Quang Tháp - tự Tịch Tại Giác linh (17/1).
7) Nam mô Thiệu Châu Tháp - tự Phổ Thuận Thiền sư.
8) Nam mô Quang Diệu Tháp - Ma Ha Sa Môn Tỷ Khiêu - Thích Thông Hiện Thiền sư.
9) Nam mô Tịnh Chiếu Tháp Trúc Lâm - Thanh Trực tự Hải Chiêm Tổ sư (25/2).
10) Nam mô Nguyệt Quang Tháp - Ma Ha Sa Môn Bồ tát giới - Thích Diệu Pháp Giác linh (29/5).
11) Nam mô Tính Thanh Tổ sư (29/9).
12) Nam mô Huệ Quán Tổ sư (17/2).
13) Nam mô Ma Ha Sa Môn Thanh Cần Tỷ Khiêu - tự Phổ Hiện Tổ sư.
14) Nam mô Ma Ha Sa Môn Thanh Thần Tỷ Khiêu- tự Chiếu Khoan Giác linh.
15) Nam mô Thiệu Đăng - Tịch Diệu Giác linh (16/2)
16) Nam mô Ma Ha Sa Môn Tỷ Khiêu pháp huý Quang Minh tự Tâm Quảng Giác linh sinh năm Ất Sửu tịch (25/2).
17) Nam mô Tường Vân Tháp - Ma Ha Tỷ Khiêu Ni Bồ tát giới pháp húy Thích Đàm Thăng Giác linh (11/12).
18) Nam mô Bảo Liên Hoa Tháp - Ma Ha tỷ khiêu Ni Bồ tát giới pháp húy Thích Đàm Hảo hiệu Thánh Từ Giác linh (21/6).
Nam mô Lịch đại chư vị Tổ sư tác đại chứng minh.![]()
1. Vì Tổ Chân Nguyên theo dòng thiền Lâm Tế và được truyền y bát dòng thiền Trúc Lâm nên ngài Như Hiện đệ tử đắc pháp nơi Tổ cũng mang tư tưởng hai dòng thiền này, gọi chung là dòng thiền Tế - Trúc. Vì thế, có sách gọi chùa Đông Khê thuộc dòng thiền Tế - Trúc.



























































































































































Bình luận bài viết