SƯ NGUYỆT CHIẾU (1882-1947)
Chung quanh cuộc đời của sư Nguyệt Chiếu có rất nhiều giai thoại và những lời đồn đại khác nhau; có người nói rằng ông vốn là người tỉnh khác đến Bạc Liêu sinh sống, có người nói ông là một chiến sĩ của phong trào Cần Vương đến ẩn lánh ở Bạc Liêu trong lớp áo nhà tu, cũng có tin đồn rằng ông chính là tác giả của bài thơ Dạ cổ hoài lang và ông Cao Văn lầu đã căn cứ vào bài thơ này để phóng tác ra nhạc… Người ta nói đến ông thì nhiều, nhưng tên họ của ông thì không ai nói đến.
Thực ra, tên họ thật của ông là Lưu Hữu Phước, vốn người Bạc Liêu chứ không phải người ở nơi khác đến đây sinh sống. Cha mẹ ông là người ở Ngã Năm - Sóc Trăng (hiện nay, thuộc huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng) đến chợ Bạc Liêu lập nghiệp vào thập niên 70 của thế kỷ XIX, đến năm Nhâm Ngọ (1882) mới sinh ra ông.
Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là một cậu bé thông minh học đâu nhớ đó, năm lên 10 tuổi đã đọc và viết được chữ Hán. Cha của ông làm nghề viết liễn lại vừa là một nhạc công rất thiện nghệ về đờn cò (nhị cầm), nên ngoài những giờ học chữ Hán, ông còn được cha truyền dạy về những bí quyết về nhạc lễ và mỗi lần cha ông được mời tham dự nhạc lễ ở đâu ông cũng được đi theo để học hỏi; vì vậy, ngay từ thuở thiếu thời, ông đã có ấn tượng rất sâu sắc về bộ môn nghệ thuật này.
Theo một số người lớn tuổi kể lại, ông đã sớm theo tiếng gọi của non sông nên khi vừa đến tuổi thành niên đã tham gia vào một tổ chức chống Pháp ở vùng ngoài (chưa xác định được tổ chức nào). Hoạt động được hơn một năm thì tổ chức bị tan rã, ông phải chạy vào vùng Sài Gòn - Gia Định ẩn náu trong vài ngôi chùa ở đây một thời gian khá lâu.
Rồi không biết do nợ trần đã dứt hay muốn che giấu tai mắt của Pháp hoặc hoàn cảnh đẩy đưa thế nào, ông lại xuống tóc quy y, năm đó vừa tròn 20 tuổi (1902). Lúc mới xuất gia, ông được sư phụ đặt cho pháp danh là Đạt Bảo, sau đó mới có thêm pháp hiệu là Nguyệt Chiếu. Người truyền đạo cho ông lại rất giỏi về nhạc lễ, nên ngoài việc trau dồi kinh luận Phật học, ông còn đươc sư phụ trao truyền cho những sở đắc về môn này. Sư Nguyệt Chiếu vốn đã có một ít căn bản về nhạc lễ, nên khi học ông tiến bộ rất nhanh, chỉ vài năm sau thì gần như đã hấp thu trọn vẹn sở học của thầy. Sau đó, trên bước đường theo thầy đi đây đi đó, ông còn học hỏi thêm rất nhiều điều hay điều lạ về nhạc lễ cổ truyền.
Khi thầy viên tịch, sư Nguyệt Chiếu mới trở về Bạc Liêu, đầu tiên ông trú ngụ ở chùa Vĩnh Phước An (hiện nay thuộc phường 2, thị xã Bạc Liêu). Người trụ trì chùa lúc ấy là Hòa thượng Minh Bảo (thế danh Lê Trừng Tâm), nguyên là chú vợ của Nhạc Khị, nên Nhạc Khị cũng thường lui tới ngôi chùa này để thăm nom chú vợ của mình; cũng vì vậy, sư Nguyệt Chiếu và Nhạc Khị đã gặp nhau và có lẽ do “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” nên sau vài lần gặp gỡ, hai người đã trở thành đôi bạn tâm giao. Từ đó trở đi, hai người đã hợp tác với nhau thực hiện rất nhiều công trình canh tân, sáng tác và chỉnh tu cổ nhạc mở đầu cho sự hình thành trường phái cổ nhạc Bạc Liêu, tạo dựng nhiều phong trào: đờn ca tài tử, ca ra bộ, phục hưng nhạc lễ cổ truyền...
Lúc bấy giờ, các tôn giáo và các tổ chức tín ngưỡng dân gian ở Nam bộ đều có những nghi thức tế lễ riêng, nhưng đa số đều sử dụng cổ nhạc làm cơ sở để thực hiện. Bài bản được sử dụng trong các nghi lễ đa số là các bản Bắc Lớn, tùy theo nhu cầu của từng chi tiết nghi thức mà các bản này sẽ được sử dụng ở mỗi vị trí và trường hợp khác nhau, sao cho phù hợp để tiếng nhạc làm tăng thêm trang nghiêm cho buổi lễ.
Cũng do đó sự sáng tạo càng lúc càng nhiều, đến nỗi lòng bản của các bản thường được sử dụng cũng bị thay đổi thành nhiều dị bản, nhất là các đoàn lễ nhạc mang mau sắc tôn giáo hoặc mang nặng tính địa phương thì luôn có sự sáng tạo rất đặc thù; vì vậy, các dị bản càng ngày càng nhiều đến nỗi người ta không còn biết bản nào là bản gốc. Thêm một điều rắc rối nữa là đa số nhạc công đều muốn học cho mau lẹ để hành nghề, vì vậy, mỗi bài bản chỉ học một đoạn thường dùng, nên ít ai đờn được trọn bản. Từ đó, các bản nòng cốt dần dần phải lâm vào cảnh “còn đầu mất đuôi” hoặc “chỉ có đuôi đầu”.
Đến đầu thế kỷ XX, phong trào canh tân và hiệu đính nhạc cổ đã được nhen nhóm, Nhạc Khị là người đầu tiên khơi động phong trào và sư Nguyệt Chiếu có thể nói là nhân vật thứ hai – là người cộng tác tích cực nhất cho Nhạc Khị trong việc làm đầy ý nghĩa này. Chính ông đã ra công sưu tầm, tập hợp và góp phần hiệu đính bảy bản Bắc Lớn (thường gọi bảy Bản Lớn, cũng có nơi gọi là Bảy Bài, gồm các bản:
- Xàng xê (64 câu)
- Ngũ đối thượng (61 câu)
- Ngũ đối hạ (38 câu)
- Long đăng (40 câu)
- Long ngâm (33 câu)
- Tiểu khúc (29 câu)
- Vạn giá (47 câu)
Suốt trong thời gian này, ông phải sưu tầm, nghiên cứu, chiết trung và đôi khi phải sáng tạo để chắp vá vào những câu, những đoạn bị mất không còn tìm lại được. Những chỗ khó khăn hoặc sai sót, ông đều được sự góp ý của Nhạc Khị nên công việc tiến hành rất thuận lợi và cuối cùng đã hoàn thành mỹ mãn vào khoảng năm 1908.
Các bản này đều được Nhạc Khị nhuận sắc và áp dụng để giảng dạy, sau đó đã được in trong sách Ca nhạc cổ điển (1962) của soạn giả Trịnh Thiên Tư. Việc góp phần hiệu đính và chỉnh tu bảy Bản Lớn của sư Nguyệt Chiếu không chỉ có công lớn cho riêng bộ môn nhạc lễ cổ truyền mà còn tích cực góp công tạo 94
dựng nền móng cho cổ nhạc Nam bộ, nhưng cũng chính vì vậy nên có một số câu trong bảy Bản Lớn ở Bạc Liêu khác với bảy bản lớn ở các nơi.
Theo lời kể của nhạc sĩ Trần Tấn Hưng (hoc trò nhỏ nhất của Nhạc Khị cũng là người biên soạn 6 câu Vọng cổ nhịp 32), vào Tết Trung Thu năm Mậu Ngọ (1918), ông Cao Văn Lầu đã độc tấu bản nhạc 20 câu vừa sáng tác xong để nhờ thầy sửa chữa và đặt tên. Nhạc Khị sau khi khen tặng đã nhờ người bạn thân của mình là sư Nguyệt Chiếu lúc bấy giờ cũng có mặt ở đó làm công việc đầy ý nghĩa này. Sư Nguyệt Chiếu nhận lời và suy nghĩ một lúc rồi nói rằng bản nhạc có nhiều đặc điểm, không cần phải sửa chữa; riêng về tên gọi thì bản nhạc đã được sáng tác theo ý nghĩa Chinh phụ vọng chinh phu trong bài Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn, vậy thì cứ căn cứ vào ý nghĩa đó đặt thành cái tên Dạ cổ hoài lang, có nghĩa là nửa đêm nghe trống nhớ chồng. Cái tên Dạ cổ hoài lang đã xuất hiện kể từ đêm đó và nó lưu truyền mãi tới ngày hôm nay.
Ở chùa Vĩnh Phước An được vài năm, sư Nguyệt Chiếu được Hòa thượng Xuân Phong (thường gọi ông Ký) mời về chùa Vĩnh Đức (hiện nay thuộc phường 1, thị xã Bạc Liêu). Tại đây, ông thu nhận học trò để phổ biến những phát hiện mới về nhạc lễ. Học trò của ông rất đông, trong số đó có cả một số học trò của Nhạc Khị, như: Thiện Ý, Thiện Ngộ, Thiện Thành, Hai Tố, Năm Phát, Tư Quận, Chín Khánh, Trịnh Thiên Tư… đến học thêm ở ông về nghi thức nhạc lễ cổ truyền.
Ông giao du rất rộng, lại có rất nhiều học trò, trong đó có cả tục gia lẫn tu sĩ nên đa số đình miếu chùa chiền và các ban nhạc lễ trong tỉnh lúc bấy giờ đều có qua lại với ông, nhất là Hòa thượng Huệ Bình (hiệu Long Vân, thế danh Nguyễn Thi Thơ, sinh năm 1881 và mất năm 1950, học trò Hòa thượng An Hóa), trụ trì chùa An Thạnh Linh ở làng Hòa Bình (hiện nay là xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) lại càng thân thiết, vì vị sư trụ trì này nghe đâu cũng có một thời gian theo tham gia chống Pháp, sau đó về ẩn cư ở Hòa Bình. Tại đây, ông đã ra công vận động bà con Phật tử để trùng tu chùa An Thạnh Linh. Sư Nguyệt Chiếu và Hòa thượng Huệ Bình, hai người có đồng cảnh ngộ nên chỉ gặp gỡ vài lần họ đã rất thân và thường lui tới với nhau.
Vào khoảng năm 1925, theo lời yêu cầu của Hòa thượng Huệ Bình, sư Nguyệt Chiếu có nhận đào tạo một đội nhạc công cho chùa An Thạnh Linh. Những người theo học, đa số là người Hòa Bình đã được sư Nguyệt Chiếu hướng dẫn cả về nhạc lễ lẫn đờn ca tài tử. Khi hướng dẫn đờn ca tài tử, ông chú trọng nhất là bài Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu. Có lẽ vì điểm này, nên đa số nghệ sĩ ở Hòa Bình đều hiểu lầm ông là tác giả của bài Dạ cổ, thực sự ông chỉ là người gợi ý đặt tên bản nhà và là người nhiệt tình phổ biến bản nhạc mà thôi. Có lẽ do mối quan hệ thầy trò vào những năm đó rất cách biệt chứ không gần gũi như ngày nay, những điều nghi ngờ của trò thường không dám hỏi lại thầy nên mới có sự hiểu lầm đó.
Vì ông là tu sĩ nên không thể trực tiếp tham gia đờn ca tài tử hoặc ca ra bộ, nhưng đệ tử của ông lại có một số tham gia vào các phong trào này, nổi bật nhất là các nghệ sĩ Năm Nghĩa, Sanh Xía, Chín Quy… Những người này đều là những nhân tài ca cổ ở Nam bộ, đã từng đóng góp rất nhiều công sức bằng lời ca tiếng hát để phát huy cổ nhạc Bạc Liêu trên phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, dĩa hát… và có những người đã trở thành diễn viên nổi tiếng của sân khấu cải lương sau này.
Riêng nghệ sĩ Năm Nghĩa (Lư Hòa Nghĩa), đã phát huy quảng đại sự nghiệp của thầy. Ông đã biến đổi giai điệu Dạ cổ hoài lang thành giai điệu Vọng cổ qua bài Văng vẳng tiếng chuông chùa. Năm Nghĩa đã thật sự mở ra kỷ nguyên Vọng cổ, ông là người có đầu công trong việc tạo dựng bản nhạc nòng cốt của cải lương. Một số người lớn tuổi nói rằng: Nếu Nhạc Khị đã đào tạo được ông Cao Văn Lầu, một ngôi sao sáng của cổ nhạc, thì sư Nguyệt Chiếu cũng đào tạo được Lư Hòa Nghĩa, một thiên tài nghệ thuật của cải lương Việt Nam.
Sư Nguyệt Chiếu còn có một khả năng rất đặc biệt, đó là tự làm được nhiều nhạc cụ. Đây cũng là một nghệ thuật độc đáo của ông, ông chỉ dùng những dụng cụ thông thường của thợ mộc như bào, đục, cưa, khoan, dùi, búa… để sản xuất ra rất nhiều sản phẩm giá trị như: trống bản (trống cái), trống đại, trống cơm, trống đôi, trống chầu, trống bác nhã (đại cổ), mõ, bạt, đờn cò (nhị cầm), đờn gáo (hồ cầm), đờn kìm (nguyệt cầm)… kể cả những loại nhạc cụ thật xưa như: bồng, phách, ốc… ông cũng làm rất khéo. Tiếc thay, cái khả năng tuyệt vời này không có người nối nghiệp.
Trong những năm cuối đời, ông vẫn ở chùa Vĩnh Đức. Lúc đó, công việc Phật sự của sư môn ông đã hoàn thành, tâm nguyện chấn hưng nhạc lễ cổ truyền ở Bạc Liêu ông cũng làm xong, lực lượng kế thừa để phát huy cổ nhạc ông cũng góp phần xây dựng, nên tâm trí lúc nào cũng an nhàn, thảnh thơi và có lẽ không còn vướng bận gì nữa, nên vào ngày 16 tháng 8 năm Đinh Hợi (30.9.1947), ông đã lặng lẽ rời khỏi cõi đời trong tư thế thiền tọa sau giờ công phu khuya.
Sư Nguyệt Chiếu đã ra đi hơn nửa thế kỷ, nhưng sự nghiệp của ông để lại cho đời quả thật là một sự nghiệp đồ sộ:
- Ông đã trực tiếp đào tạo một lực lượng lớn nghệ nhân nghệ sĩ đàn ca tài tử, cải lương và nhạc lễ cổ truyền.
- Góp phần xây dựng phong trào đàn ca tài tử từ những năm đầu thế kỷ.
- Chỉnh tu và hệ thống bảy bản Bắc Lớn nhằm làm nền tảng cho nhạc lễ cổ truyền để từ đó làm cơ sở chấn hưng nhạc lễ Phật giáo ở Nam bộ.
- Đặt tên cho bản Dạ cổ hoài lang của ông Cao Văn Lầu, đồng thời phổ biến thật rộng bản này trong quần chúng.
- Các học trò của sư Nguyệt Chiếu đa số là những nghệ sĩ có đủ bản lĩnh, có khả năng làm cho của bản Vọng cổ như một dòng mạch cứ tuôn chảy cùng khắp non sông đất Việt và cứ lan dần đến nhiều địa phương khác, kể cả ở nước ngoài. Việc làm tốt 98
đẹp này đúng là công lớn của nghệ sĩ Năm Nghĩa, nếu truy nguyên về đầu mối của nó cũng từ sư Nguyệt Chiếu mà ra.
- Đa số những nghệ nhân trong giới nhạc lễ ở Bạc Liêu đều công nhận sư Nguyệt Chiếu là một nhạc sĩ tiền bối có công lớn nhất trong việc kế thừa bộ môn nghệ thuật này.
Sư Nguyệt Chiếu thực sự là một nhân vật lịch sử văn hóa tích cực, đã có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh Bạc Liêu - là một trong những người tiên phong xây dựng phong trào đàn ca tài tử và nhạc lễ cổ truyền Nam bộ trong tiền bán thế kỷ XX.
- Bài viết của Cư sĩ Trần Phước Thuận, đăng trong website www.phatgiaobaclieu.com
- Bài đăng trong báo Giác Ngộ năm 2007
- Tỳ kheo Đồng Bổn biên tập lại.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết