Thông tin

SỰ XUẤT HIỆN TAM THÂN PHẬT

THEO ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI VÀ TÔN GIÁO

 

THÍCH NỮ HUỆ THANH

 


 

Phật giáo sau thời Đức Phật Niết-bàn khoảng 100 năm bị phân thành hai phái Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Từ hai bộ phái này tiếp tục phân ra nhiều bộ phái khác nhau, nhưng vẫn nương theo giáo lý truyền thống, cùng sinh hoạt theo nề nếp. Trước nhu cầu của thời đại đòi hỏi Phật giáo cần có sự chuyển biến mới về tư tưởng, cách tiếp cận xã hội. Và Phật giáo Đại thừa ra đời với sự phát triển của tư tưởng mới, có những giải thích về vũ trụ nhân sinh, những phương pháp và cả mục tiêu lý tưởng giải thoát cũng đặt trên nền tảng khác biệt. Trong đó phải nói đến quan niệm về thân Phật, cũng tôn thờ Phật Thích Ca, nhưng Đại thừa nhận định mới lạ, đó là giáo thuyết về Tam thân (Trikāya), xem Đức Phật là một vị siêu nhân, siêu thế. Chính quan niệm này tạo nên một trong những đặc điểm chính của giáo lý Phật giáo Đại thừa. Cho nên việc hình thành quan niệm Tam thân cũng chính là bước đầu hình thành tư tưởng Đại thừa.

Nghiên cứu về “điều kiện xã hội và điều kiện tôn giáo xuất hiện Tam thân” để giúp chúng ta có cơ hội tìm hiểu và hiểu rõ hơn về nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa.

Bối cảnh chính trị

Khủng bố của triều đại Sunga: “Sau khi vua A-dục qua đời, vương triều Khổng Tước mất dần thế lực. Năm 187 BC quan tư lệnh Pusyamitra đứng lên giành lấy chính quyền, vương triều Khổng Tước bị diệt vong. Pusyamitra sáng lập vương triều Huân Ca (Sunga). Sau khi lên ngôi vua phục hồi nghi thức tế tự, khủng bố Phật giáo. Theo nguồn tư liệu Phật giáo (Tạp A Hàm), vua Pusyamitra thực hiện những hoạt động phá hoại Phật giáo. Từng đưa quân đến phá chùa Kê Viên (Kukktarama) ở Hoa-thị-thành, rồi lần lượt lên phía Bắc đánh Ca-thấp-di-la. Trên con đường tiến binh của mình hễ nhìn thấy chùa tháp là ông cho đập phá. Tăng già khắp nơi phải chịu sự phá hoại”1. Do phục hồi nghi thức tế tự nên vương triều nầy ủng hộ Hindu giáo. Được sự ủng hộ của vương triều nên Hindu giáo phục hưng. Bà-la-môn phát huy quyền lực của mình, khởi xướng chiến dịch phục hưng rầm rộ, bằng cách bành trướng giáo lý, giới thiệu Ba-la-môn giáo như một tôn giáo toàn cầu, thay vì là tôn giáo chỉ dành cho giới trí thức quý tộc, nhờ vậy dành thế thượng phong ở nhiều lĩnh vực. Sự ủng hộ của chính quyền là vô cùng quan trọng, chính điều này buộc Phật giáo có những bước phát triển với phương pháp mới trong sự nghiệp truyền bá mới đáp ứng nhu cầu của xã hội, tạo điều kiện cho Phật giáo Đại thừa xuất hiện.

Ảnh hưởng tín ngưỡng Hindu giáo

Sau thế kỉ thứ III TCN (sau triều đại của vua Asoka) Phật giáo chia làm nhiều bộ phái, có nhiều vấn đề tiêu cực làm cho Phật giáo bị suy yếu. Phật giáo từ khi Phật thành đạo cho đến 100 năm sau Phật Niết-bàn, nắm quyền trên diễn đàn tôn giáo, nay dần dần nhường chỗ cho đạo Hindu. Hindu giáo bắt nguồn từ Bà-la-môn giáo (Brahman), Brahma xuất phát từ Vệ-đà, giai đoạn này Hindu giáo thay đổi chiến thuật, phương pháp hoằng pháp. Thay vì trước đây Vệ đà và Brahma chỉ dành cho giai cấp cao (Bà-la-môn, Sát-đế-lợi), còn giai cấp thấp thì không đựơc tham gia. Đến thời điểm này, họ thực hiện tín ngưỡng toàn cầu hóa, dành cho tất cả mọi người. Theo như giáo lý Bhagavadgītā có ba vị thần trọng yếu là Brahma-thần sáng chế; Visnu-thần duy trì sự sống; Siva-thần hủy diệt (vô thường).

Về mặt triết học thì đây là ba nguyên lý của sự sống: sinh ra, duy trì và mất đi, nhưng được thần thánh hóa trở thành đối tượng của tín ngưỡng. Hindu mới xiển dương tín ngưỡng, đặc biệt là niềm tin tôn giáo, khi thần thánh được xiển dương thì việc thờ cúng, cầu nguyện được diễn ra đáp ứng nhu cầu của quần chúng nhân dân. Một số tín đồ Phật giáo cũng rất ưa thích, lại thêm bị mất niềm tin vào Phật giáo, cho nên Hindu giáo dễ dàng lôi kéo được tín đồ kể cả tín đồ Phật giáo. Chính điều đó đòi hỏi Phật giáo cần có bước chuyển mình, thay đổi phương hướng mới mẻ hơn mới đáp ứng được nhu cầu của số đông, mới không bị đào thải. Từ lý thuyết siêu hình hay quan niệm đa thần của Hindu giáo mà hình thành những quan điểm, luận điểm về Đức Phật, khái niệm về Đức Phật, quả Phật được đem ra phân tích. Thời kỳ đầu Đức Phật là Phật thuần túy lịch sử, qua giai đoạn này Đức Phật được đẩy lên nhị thân, tam thân. Đức Phật trở thành đối tượng của tín ngưỡng, trở thành bậc siêu thế siêu nhiên và trở thành quy luật của xã hội. Phật giáo Đại thừa mở ra chuyện tiền thân của Đức Phật trong hình ảnh của Bồ-tát với hạnh nguyện từ bi, nhẫn nại và trí tuệ để cứu vớt chúng sanh.

Vì Hindu giáo có rất nhiều thần thánh, còn Phật giáo chỉ có một Phật Thích Ca nên không hấp dẫn. Phật giáo mất quần chúng, đòi hỏi cần có phương pháp mới để giải thích, sáng tạo ra nhiều tiền thân của Đức Phật dựa theo kinh điển, hay nhiều vị Phật che chở về tinh thần; bịnh tật có Phật Dược Sư, muốn đời sống được ấm no đầy đủ, nhàn hạ thì về cảnh giới Phật A Di Đà. Vậy “sự xuất hiện của đại thừa do sự kích thích của Ấn Độ giáo (Hinđu)”2.

Kỳ Na giáo (Jaina) đến với quần chúng

Đồng thời với sự phân hóa của Phật giáo thì Kỳ na giáo cũng phân hóa thành nhiều ngành nhỏ. Cùng với sự phục hưng của Hindu giáo thì Kỳ Na giáo cũng cố gắng để mong lôi kéo tín đồ, nên ra sức đẩy mạnh tín ngưỡng và hạ tầng dân chúng. Đến thế kỷ thứ I TCN thì phần lớn tín đồ từ Trung bộ đến Đông Nam Ấn đều theo tôn giáo này. Lòng tôn kính trước giáo chủ Mhavira lên cao tột độ. Sự bảo trọng các di vật, xá lợi được bảo tồn triệt để, các tháp xá lợi được xây cất rất nhiều. Các tín đồ ra sức xây chùa, tháp, đền đài, nhà thờ tổ, tăng viện, đào hồ chứa nước, khơi nguồn nước và ruộng, lập các vườn chơi công cộng, dựng cột, tạc bia, thực là đủ loại và khắp hết mọi vùng, không kể là giàu nghèo tại nơi tôn giáo Jaina3. Chính phong trào văn hóa xây chùa, thờ tháp, tôn thờ xá lợi này đã ảnh hưởng ít nhiều đến các tín đồ và Phật giáo.

Văn hóa xây tháp thờ cúng xá lợi Phật

Khi Phật không còn nữa thì việc tôn thờ Phật chính là tôn thờ xá lợi, quy y Phật chính là quy ngưỡng, lễ lạy xá lợi Phật. “Vì cúng dường Xá Lợi tức là Phật bảo, thấy Phật bảo là thấy pháp thân, thấy pháp thân là thấy hiền thánh, thấy hiền thánh là thấy tứ đế, thấy tứ đế là thấy Niết Bàn. Do đây nên biết rằng Tam Bảo thường trụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho thế gian”4. Từ đó, việc bảo giữ và duy trì tháp thờ xá lợi được tiến hành để cho các tín đồ đến chiêm bái, lễ lạy, cúng dường, tạo nên phong trào lễ tháp, lễ xá lợi Phật như lễ Phật. “Khi Đức Phật nhập diệt việc trà tỳ được ủy thác cho các tín đồ tại gia, như trên đã nói xá lợi Phật được chia ra tám phần để thờ cúng. Việc quản lý các bảo tháp thờ xá lợi Phật là nhiệm vụ của Phật tử tại gia, không lâu sau đó các tín đồ xem tháp thờ Phật là trung tâm hình thành nên một đoàn thể, khác với chúng xuất gia luôn tuân thủ lời Phật dạy để duy trì giáo đoàn. Những người giữ gìn tháp cho rằng, người làm theo giáo pháp không bằng mơ ước về nhân cách của Thế Tôn lấy đó làm nơi nương tựa cho tín ngưỡng. Sự mơ ước, sự ngưỡng mộ như vậy dần dần sẽ làm cho đức Phật trở nên một con người siêu việt, thành thánh hóa”5. Chính điều này hình thành nên văn hóa thờ cúng tháp, xá lợi Phật trong Phật giáo.

Theo như học thuyết căn bản của Pháp Tạng bộ: “Cung kính cúng dường tháp được công đức thật rộng lớn”6. Lại nữa, trong kinh Đại Bát Niết Bàn có ghi rằng: “Này Ananda, đó là bốn thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy tư: Đây là chỗ Như Lai đản sanh; Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng; Đây là chỗ Như Lai diệt độ nhập Vô dư y Niết-bàn. Này Ananda, và những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên”7. Đức Phật lại nói tiếp: “Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem đến tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài”8. Vậy chính Đức Phật đã dạy sau khi Ngài qua đời nếu những ai cung kính cúng dường, lễ lạy xá lợi của Ngài hay đi chiêm bái các thánh tích sẽ được công đức lớn.

Như vậy, dù xác thân Ngài không hiện hữu nhưng Ngài vẫn vì chúng sanh mà thị hiện hóa độ chúng sanh không mệt mỏi, được trình bày qua các câu chuyện Jakata. Đức Phật xuất hiện ở đời xuất gia, chứng đạo tại Bồ-đề đạo tràng, thuyết pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, nhập Niết-bàn ở rừng Ta-la tại Câu-thi-la, là thân gì? Thân nào quá khứ có mà hiện tại và tương lai cũng có? Rồi thân nào có đủ 32 tướng, 80 vẻ đẹp? Còn thân ở tương lai là thân nào? Từ đó hình thành quan niệm về Tam thân: Pháp thân thì thường trụ qua cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai; Báo thân đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp; Hóa thân thị hiện các vị Bồ-tát, thân này thân kia vì lợi ích chúng sanh, hay vô số vị Phật hiện đang thuyết pháp hóa độ chúng sanh ở khắp cõi vũ trụ.

Điều kiện tôn giáo hình thành Tam thân

Theo quan điểm của Hirakawa: “Nguồn gốc phát khởi phong trào Đại thừa, mà người cư sĩ có vai trò quan trọng qua các hoạt động đều tập trung vào các tháp, di tích và đền thờ được quản lý bởi người Phật tử tại gia. Điều đó làm gia tăng giáo phái Phật giáo và tầm quan trọng của Đức Phật trong Đại thừa”9. Từ điều kiện xã hội về văn hóa thờ cúng tháp đã hình thành nên tư tưởng Tam thân Phật.

Lại nữa, theo như Peter Havery trong An Introduction to Buddhism, “phong trào phát triển đường lối Phật giáo mới, về sau được gọi là Mahāyāna, bắt đầu hình thành từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của thời kỳ Phật giáo sơ khai, nó có thể nảy sinh vào khoảng thời gian đó ở phía Đông Nam và phía Tây Bắc. Bắt đầu giữa các thiền sinh tu tập trong rừng ở phía Đông Nam và sau đó di chuyển lên trên, đặc biệt ở Tây Bắc Ấn Độ”10. Chính các vị tỳ kheo tu tập trong rừng này là những người viết kinh Đại thừa đầu tiên bằng phương pháp thiền quán, chính họ cố giải thích giáo nghĩa cho thật sự trung thành với giáo nghĩa Nguyên thủy của Đức Phật, mà hình thành những bộ kinh Đại thừa. “Những người sẽ phục hồi giáo lý bằng phương tiện thiền quán. Mỗi lời giải thích cho thấy rằng kinh là những kinh nghiệm phát sanh trực tiếp hay thiền định, tuy nhiên chúng mang hình thức đối thoại giữa Đức Phật lịch sử với đệ tử và chư thiên”11.

Phật giáo Đại thừa là sự giải thích mới mẻ hơn của Phật giáo Nguyên thủy đến với quần chúng nhân trong nhu cầu của thời đại. Về tinh thần Bồ-tát đạo không phải trong Phật giáo Đại thừa mới có mà tinh thần này đã có sẵn trong Phật giáo Nguyên thủy. Ngài đã khuyến khích, động viên hàng đệ tử của mình cùng nhau tham gia công tác hoằng pháp, để tất cả mọi người đều được thọ hưởng giáo pháp vi diệu mà Ngài đã chứng đắc; để được hạnh phúc và an lạc thật sự. Trong tinh thần ấy phải nhắc đến tôn giả Phú-Lâu-Na đã đi đến một vùng quê man rợ là Suncparanta, chấp nhận nguy hiểm đến tính mạng để giảng pháp cho dân chúng ở đó: “Thô bạo, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Độc ác, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Nếu người xứ Sunàparanta, này Punna, chửi bới, nhiếc mắng ông, thời này Punna, ở đây, ông nghĩ thế nào? Nếu người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, chửi bới, nhiếc mắng con, ở đây, con sẽ nghĩ: “Thật là hiền thiện, người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không lấy tay đánh đập ta”. Như vậy, ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy… Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, sẽ đoạn mạng con với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: “Có những đệ tử của Thế Tôn, khi phiền não, tủi hổ và ghê tởm bởi thân và sinh mạng đã sử dụng đến con dao. Nay dầu không tìm đến ta vẫn được sử dụng con dao”. Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy”12. Vậy tất cả tinh thần này không phải là Đại thừa hay sao? Vốn dĩ Bồ-tát đạo này đã là tinh thần của Phật giáo trong giai đoạn thứ nhất, qua giai đoạn Phật giáo Bộ Phái tinh thần này bị bỏ quên, do các vị xuất gia chuyên tâm vào học thuật và ẩn tu mà quên đi quần chúng nhân dân, khiến cho Phật giáo không đáp ứng nhu cầu của quần chúng, mất tín đồ, mất dần chỗ đứng trong xã hội, có thể dẫn đến chỗ suy vong. Thấy được thực trạng này, một số vị cấp tiến đã cố gắng đưa Phật giáo trở lại với tinh thần ban đầu của nó: “vì hạnh phúc số đông, vì chư thiên và loài người”.

Với tinh thần Bồ-tát đạo dần hình thành nên giáo lý Bồ-tát đạo, để phát triển trọn vẹn hơn cần có cái gì khác hơn về khái niệm Phật quả mà chúng ta tìm thấy trong văn học Nguyên thủy. Sự chuyển hóa của khái niệm Phật quả trong kinh tạng Nikaya, thành hình ảnh của Đức Phật của đức tin và huyền thoại trong Phật giáo. Trong giai đoạn đầu thấy pháp là thấy Phật, thấy duyên khởi là thấy Pháp. Quan niệm pháp chính là Phật, pháp là chân lý thì luôn luôn tồn tại, vậy đây chính là pháp thân thường trụ. Không có danh từ Tam thân: pháp thân, hóa thân hay báo thân. Đến giai đoạn Phật giáo Bộ Phái thì quan niệm về Phật thân quang có khác đi: “Chư Phật Thế Tôn đều là những bậc siêu xuất thế gian; Phật dùng một âm thanh nói tất cả pháp; thọ lượng, sắc thân, oai lực của Như Lai không có giới hạn; Đức Phật không có ngủ và nằm mộng, tất cả Bồ-tát khi vào thai mẹ đều hiện hiện voi trắng, khi xuất thai đều bằng hông phải (của Đại Chúng Bộ)13… quan niệm về báo thân vượt lên trên mức người bình thường, nhưng những điều này không phải các nhà Đại Chúng Bộ tự đặt ra mà vốn dĩ đã xuất hiện trong kinh Nguyên thủy. Như xem Đức Phật là bậc siêu thế: sự kiện Đức Phật ăn trúng nấm độc trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda ta không thấy một ai ở cõi trời, cõi người, ở ma giới, ở phạm thiên giới, không một người nào trong chúng sa môn, Bà-la-môn, giữa thiên nhơn ăn món mộc nhĩ này mà tiêu hóa được ngoài Như Lai”14. Chỉ là người siêu việt mới ăn được thứ nấm cực độc này. Hay Đức Phật là người có thần thông: “Này Anan, Như Lai đã tu tập bốn thần túc. Này Sāriputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ không có tùy pháp (dhammanvaya) về Ta như sau: “Đây là Thế Tôn, vị đã chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như trên đất liền, ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên”15, v.v.

Tiếp nối tư tưởng này, các nhà Đại thừa đã hình thành nên lý thuyết Tam thân của mình, cũng từ đó con số Đức Phật đã gia tăng. Kinh tạng Nikaya đã đề cập sáu vị Phật xuất hiện trước Phật Thích Ca và một vị sẽ xuất hiện sau Ngài, đó là Đức Phật Di Lặc16. Người ta quan niệm, thời gian vũ trụ không có sự khởi đầu một cách rõ ràng hay sự chấm dứt có thể biết được, không chỉ có một thế giới Ta-bà này mà vũ trụ bao la có vô số thế giới khác cùng tồn tại, thì cũng sẽ có vô số chư Phật thị hiện, thuyết pháp và hóa độ chúng sanh, như vậy số chư Phật quá khứ được gia tăng; có những câu chuyện về một số vị Phật đã được lưu truyền và đưa vào thực tại đời sống, như Phật A Di Đà ở nước Cực Lạc phương Tây…

Những văn bản kinh điển của thời kỳ Phật giáo Đại Thừa đã nâng cao năng lực tuệ giác của Đức Phật, Ngài trở thành một đấng toàn năng. Ngài trở thành một bậc sở hữu được vô số phép thần thông kỳ diệu. Huyền thoại và những câu chuyện được lưu truyền mô tả những phương cách kỳ diệu, Ngài đã giảng dạy và chuyển hóa kẻ khác, đó là sự xuất hiện của tập Jataka. Từ một số câu chuyện được tìm thấy trong các bài kinh như: câu chuyện Ngài gặp tên giết người hàng loạt Angulimala17, ác quỷ Alavaka, người cùi khốn khổ Suppabuddha18. Những chuyện ấy đã gia tăng theo cấp số nhân, tô vẽ một hình ảnh Đức Phật như là một bậc đạo sư đầy sức sáng tạo không thể nghĩ bàn, đã cứu độ đủ hạng người khổ đau và si ám. Ngài đã phá vỡ tính ngã mạn của một số người Bà-la-môn19; đem lại an ủi cho những người mẹ đau khổ vì mất con hay các bà vợ goá khốn cùng; Ngài xoá đi tính tự mãn của những kiêu binh và giới quý tộc triều đình; Ngài đã xuất sắc vượt qua các học giả thông thái trong các cuộc tranh luận và các du sĩ khổ hạnh muốn cạnh tranh với Ngài về các ngón kỹ xảo thần thông; Ngài giáo huấn các vị trưởng giả keo kiệt về điều kỳ diệu của hạnh bố thí20; Ngài khơi nguồn tinh tấn nơi các tỳ kheo phóng dật; Ngài chinh phục lòng kính trọng của các vị vua và hoàng tử21.

Chính nhờ phục vụ kẻ khác và hy sinh thân mình vì lợi ích của chúng sanh mà Bồ-tát đã tạo được nhiều công đức và đạt được những đức hạnh đưa đến chứng đắc Phật quả. Nhờ công đức ấy, Ngài đã thành tựu báo thân trong kiếp hiện tại. Vì lòng từ bi của Phật trải rộng ra vô lượng kiếp “những người có duyên được độ ta đều độ hết, những người không có duyên được độ ta gây cho họ có duyên được độ về sau, từ đây về sau đệ tử của đức Như Lai sẽ tiếp tục nhau làm, như thế thì gọi là pháp thân của đức Như Lai trường tồn bất diệt”22. Cho nên việc nhập diệt của Ngài chỉ là sự thị hiện, nhưng thực ra Ngài vẫn tồn tại ở thế giới này hay thế giới khác tiếp tục hóa độ chúng sanh, “Ta xưa tu hành đạo Bồ-tát, cảm thành thị mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ, mà bằng xướng nói sẽ diệt độ. Đức Như Lai dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sanh”23. Giáo lý Tam thân hình thành từ đó, gắn liền với con đường Bồ-tát đạo, hai cái này không thể tách rời nhau.

Kết luận

Đại thừa không phải là một phong trào mới trong Phật giáo, xuất phát từ những giáo lý Phật giáo thời kỳ đầu và những kinh sách mới. Trọng điểm nhấn mạnh là trí tuệ, từ bi, và phương tiện khéo léo. Các khái niệm cơ bản Đại thừa có thể được tìm thấy từ thời Phật giáo Nguyên thủy. Do đó, Phật giáo Đại thừa không hoàn toàn khác với Phật giáo Nguyên thủy. Chúng là bước phát triển mới được vận chuyển bởi lòng từ bi theo nhu cầu của con người thời đại. Trong đó, sự ra đời học thuyết Tam thân là một trong điểm khởi đầu hình thành Phật giáo Đại thừa, từ điều kiện của xã hội, bối cảnh lịch sử hình hành nên tư tưởng mới mẻ này. Chính nó đã giúp Phật giáo vượt qua giai đoạn khó khăn trong thời kì Phật giáo Bộ Phái với con đường Bồ-tát đạo và Phật quả. Nhấn mạnh vai trò của tự lực cũng như tha lực, con đường tu tập của hành giả để đạt đến cứu cánh luôn cần hai yếu tố này. Các pháp là trùng trùng duyên khởi thì đều có liên quan mật thiết và gắn kết với nhau, không có cái gì là tự nhiên trơ trọi mà hình thành, mà có sự tác động lẫn nhau. Cũng như sự xuất hiện của giáo lý Tam thân hay Phật giáo Đại thừa là điều tất yếu của quy luật vận chuyển và phát triển của thời đại. Mục đích của nó không ngoài việc đem lại hạnh phúc và lợi lạc cho con người và xã hội.

 


1. Thích Hạnh Bình - Phương Anh (dịch), Khái Niệm Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông, 2013, tr. 68-69.

2. Khái Luận Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, sđd, tr. 101.

3. Thích Mãn Giác, Lịch Sử Triết Học Ấn Độ, Nxb. Văn Hóa Sài Gòn, 2007, tr. 191-192.

4. Thích Minh Châu dịch, Trường Bộ kinh, Nxb. Tôn Giáo, 2013, tr. 685.

5. Khái Luận Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, sđd, tr. 102.

6. Thích Hạnh Bình, Dị bộ tông luân luận, Nxb. Phương Đông, 2016, tr. 156.

7. Thích Minh Châu dịch, kinh Đại Bát Niết bàn, Nxb. Tôn Giáo, 2013, tr. 327.

8. Sđd, tr. 327.

9. Paull William, Mahāyāna Buddhism: The Doctrinal Foundations, Psychology Press, 2009, tr. 22.

10. Peter Havery, An Introduction to Buddhism, Nxb. Cambridge, 2000, tr. 108.

11. Sđd, tr. 109.

12. Thích Minh Châu dịch, kinh Tương Ưng 4, chương I, Viện NCPHVN, 1999, tr. 105-108.

13. Thích Hạnh Bình dịch và chú giải, Dị Bộ Tông Luân Luận, Nxb. Phương Đông, 2016, tr. 51-54.

14. Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh, Nxb. Tôn Giáo, 2012, tr. 624.

15. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ 112, Đại Kinh Sư Tử Hống, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2012, tr.163-164.

16. Vào thời kì ấy thì có đức Phật ra đời hiệu là Di-lặc Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chính Giác, mười hiệu đầy đủ, như đức Thích Ca Như Lai ngày nay không khác, (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Trường A Hàm, Tuệ Sỹ dịch, tr. 206).

17. Thích Minh Châu dịch, Trung Bộ Kinh, kinh Angulimala, tr. 577-590.

18. Suppabuddhakuṭṭhi Sutta, Kinh Udāna.

19. Trường Bộ kinh, kinh Kutadanata.

20. Kinh Trung Bộ, kinh Ưu-ba-ly.

21. Giáo hóa vua A-xà-thế, Sa Môn Quả, Trường Bộ.

22. Thích Trí Quang dịch, Sa Di Giới và Sa Di Ni Giới I, Nxb. TPHCM, 1994, tr 52.

23. Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn Giáo, 2011, tr 411-412.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 54
    • Số lượt truy cập : 7049040