THIỀN SƯ TÁNH THIÊN NHẤT ĐỊNH
THẾ HỆ THỨ NĂM THIỀN PHÁI LIỄU QUÁN
TRẦN ĐÌNH SƠN
Thiền sư Tánh Thiên Nhất Định (1784 - 1847)
Hai mươi năm cuối thế kỷ XVIII, đất nước lâm cảnh nội chiến, binh lửa tàn phá khắp mọi miền Nam Bắc. Các hoạt động văn hóa, tôn giáo bị đình trệ.
Năm 1802, Chúa Nguyễn Phước Ánh hoàn toàn chiến thắng, thống nhất đất nước lên ngôi hoàng đế, khai sinh quốc hiệu Việt Nam, niên hiệu Gia Long (1802 - 1819). Từ thời điểm này, Phật giáo được triều Nguyễn ủng hộ phục hưng…
Thiền sư Tánh Thiên Nhất Định (1784 - 1847), thế danh Nguyễn Văn Nội. Nguyên quán làng Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Từ thơ ấu, song thân cho ngài theo Hòa thượng Phổ Tịnh, hành điệu tại chùa Thiên Thọ (Báo Quốc). Năm 19 tuổi, bổn sư thế độ làm Tăng, pháp danh Tánh Thiên, tự Nhất Định. Ngài thọ giới Cụ túc với Hòa thượng Mật Hoằng tại Đại giới đàn Quốc Ân.
Năm 1814, ngài được bổn sư phú pháp:
Âm:
“Nhất định chiếu quang minh
Hư không mãn nguyệt viên
Tổ tổ truyền phó chúc
Đạo minh kế Tánh Thiên”
- Năm 1816, Hòa thượng Phổ Tịnh viên tịch, ngài được cung thỉnh trú trì chùa Sắc tứ Thiên Thọ suốt 14 năm, ân tứ giới đao độ điệp. Năm 1833, theo sắc chỉ của vua Minh Mạng, bộ Lễ cung thỉnh ngài đến trú trì Linh Hựu quán. Sau đó tiến cử chức vụ Tăng cang tại đây.
Năm 1840, xây dựng Quốc tự Giác Hoàng xong, vua ban chỉ thỉnh ngài về giữ chức Tăng cang Giác Hoàng.
Dưới triều vua Thiệu Trị (1841 - 1847), vào năm thứ 3, Tăng cang Nhất Định dâng sớ xin được từ nhiệm trở về ẩn cư phụng dưỡng mẹ già, chuyên tâm tu niệm. Vua cảm thông tâm tình của ngài nên ban ơn cho giải chức. Ngài vô cùng hoan hỷ cảm thán:
“Già rồi may được vua thương
Một thân một bát rộng đường vân du”
Rời Quốc tự Giác Hoàng bên cạnh cung vua, ngài cùng hai học trò hầu mẹ già lên vùng đồi núi Dương Xuân, phía Tây Nam kinh thành. Dùng tranh tre dựng ngôi nhà nhỏ, phía trước thờ Phật Di Đà, phía sau làm chỗ cư trú của mẹ con, thầy trò, đặt tên “An Dưỡng am”.
Hòa thượng Nhất Định trước sau tuân thủ con đường “Thiền tịnh song tu” của pháp phái Liễu Quán. Đối với đại chúng, ngài chỉ dạy pháp môn niệm Phật:
“Niệm Phật thì phải ân cần
Thức khuya dậy sớm tay lần hạt châu
Niệm Phật ngay thẳng làm đầu
Ân cao cũng trả, nghĩa sâu cũng đền
Niệm Phật thọ mạng tăng diên
Phật vô lượng thọ ta liền khác chi
Niệm Phật nhớ chữ từ bi
Tham lam bớt bớt, sân si vừa vừa…”
Đối với tầng lớp quyền quý, trí thức có điều kiện nghiên cứu kinh điển, ngài khai thị:
Âm:
“Liễu ngộ tức tâm, tâm thị Phật
Tương thừa tục diệm vĩnh xương long”
Nghĩa:
“Giác ngộ được tâm, tâm là Phật
Muôn đời đèn tuệ, tiếp trao nhau”
Âm:
“Tảo giác mê vân lung hạo nguyệt
Tuệ phong xuy tán, kiến quang minh”
Nghĩa:
“Sớm biết mây mờ che bóng nguyệt
Tâm mê gió tuệ quét sáng trưng”
Không những Tăng tín đồ hết lòng tôn kính, quy y, Hòa thượng còn được các vương hầu, đại thần đương thời ngưỡng mộ vì giới đức trong sạch. Ngài không xu phụ, tham cầu hư danh lợi dưỡng. Nhiều danh nhân văn hóa như Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu, Thượng thư Nguyễn Đăng Giai… đều có giao tình tốt đẹp, lui tới thảo am của ngài đàm đạo, học hỏi thiền lý với vị Lão tăng tinh thông tam giáo.
* Ông hoàng thơ Miên Thẩm, một hôm lên viếng An Dưỡng am đề tặng:
Âm:
An Dưỡng am dạ tọa đắc cú
“Tứ sơn phong vũ dạ trì trì
Mính uyển thiền sàng tiểu tọa nghi
Bất thị kim triêu giá trúc viện
Văn chung vô hạn bích vân ty”
Nghĩa:
Am An Dưỡng đêm ngồi ngâm thành câu
Bốn bề mưa gió suốt đêm thanh
Trà uống ngồi nghiêm chỉnh một mình
Ước được sáng nay qua viện trúc
Nghe chuông luống những nhớ trời xanh
(Ngô Văn Chương dịch)
* Tương An quận vương Miên Bửu
Hoàng tử thứ 12 của vua Minh Mạng, giỏi thơ văn, đặc biệt là thơ quốc âm (Nôm). Ông rất ngưỡng mộ Hòa thượng Nhất Định. Lúc ngài còn giữ chức trí trì Linh Hựu quán, hoàng tử thường đến chùa lễ Phật đàm đạo. Cảm phục đạo hạnh của bậc chân tu, vương làm thơ tặng:
Âm:
Tặng Cao tăng Nguyễn Nhất Định
Dạ tụng Pháp Hoa kinh
Chân tâm bách luyện tinh
Phòng vô phiến trần nhập
Bích quải điểm đăng minh
Tích hữu Uyên Minh thức
Tâm như Huệ Viễn thanh
Chúng nhân đổ ngột ngột
An đắc thấu sinh sinh
Nghĩa:
Tặng Cao tăng Nguyễn Nhất Định
Đêm tụng Pháp Hoa kinh
Chân tâm tu luyện tinh
Phòng không mảy bụi tục
Vách mắc ngọn đèn xanh
Dấu vết Uyên Minh sáng
Cõi lòng Huệ Viễn thanh
Người trần nhiều lao khổ
Khó rõ lẽ sinh sinh
(Nguyễn Khuê dịch)
* Đại thần Nguyễn Đăng Giai
Xuất thân trong gia đình Nho học thành đạt, giữ truyền thống “Cư Nho mộ Thích”, ông rất ngưỡng mộ Hòa thượng Nhất Định, viết văn bia ca tụng ngài: “…Thiền sư Nhất Định, phụng hành Phật pháp giáo hóa từ bi, tiếp độ chúng sanh. Ở trong hàng tín chúng có nhiều người hoặc đã bước lên cửa ngõ nhiệm mầu nơi thế giới Hoa tạng. Hoặc đã đi vào biển tánh giác ngộ của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na. Há không phải là hạnh từ bi của ngài đó sao?...”.
Ngài đã thọ ký 41 đệ tử xuất gia, trong đó có 15 vị được trao kệ đắc pháp. Đặc biệt ba vị xuất sắc nhất nối tiếp Tôn sư đào tạo Tăng tài hoằng dương Chánh pháp làm rạng rỡ tông môn pháp phái Liễu Quán cận đại là: Hòa thượng Hải Thuận Lương Duyên (chùa Báo Quốc), Hòa thượng Hải Thiệu Cương Kỷ (chùa Từ Hiếu), Hòa thượng Hải Toàn Linh Cơ (chùa Tường Vân).
Tổ sư Nhất Định trú tại am An Dưỡng được 5 năm. Ngày mồng 7 tháng Mười năm Đinh Mùi (1847), triều vua Thiệu Trị, ngài bỏ dép về Tây sau 63 năm thác sinh vào quốc độ Việt Nam. Tiếp nối trao truyền tuệ đăng Liễu Quán đến nay trải qua hơn 300 năm. Thời nào cũng xuất hiện các bậc Cao tăng toàn tâm toàn ý xiển dương Chánh pháp, chấn hưng Phật giáo. Hiện đại, có Thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh, kế đăng đời thứ tám thiền phái Liễu Quán, trực hệ pháp phái Tánh Thiên Nhất Định, chùa Từ Hiếu phát triển thành công pháp môn thiền Làng Mai tại các quốc gia Âu Mỹ. Điều này tạo sức sống mới, lan tỏa tinh hoa giáo lý đạo Phật, phù hợp thời đại, văn hóa phương Tây. Ứng hợp với đại nguyện của Tổ sư Liễu Quán gởi gắm qua bài kệ truyền pháp:
Âm:
Thiệt Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Xướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chơn Không.
Nghĩa:
Đường lớn chân thật
Biển tánh lắng trong
Nguồn tâm rộng thoáng
Gốc đức gió lành
Giới định phước huệ
Thể dụng dung thông
Trí quả vượt qua
Khế hợp thành công
Truyền trao giáo lý
Phát triển chánh tông
Hạnh giải tương ưng
Ngộ thấu nguồn chân.
Bình luận bài viết