Thông tin

THIÊN TRÚC VÀ NHỮNG BỘ NHẠC KỸ TÂY VỰC

 

LÊ HẢI ĐĂNG

 


 

Có lẽ, do ảnh hưởng của tiểu thuyết “Tây du ký” của nhà văn Trung Quốc Ngô Thừa Ân mà địa danh Thiên Trúc (天竺) lưu truyền phổ biến. Vào thời cổ đại, Thiên Trúc nhằm chỉ Ấn Độ và khu vực Subcontinent, gồm các quốc gia Nam Á, như Pakistan, Nepal, Bhutan, Bangladesh, Sri Lanka. Theo “Sử ký” ghi chép, bấy giờ sông Ấn Độ gọi là Thân độc (身毒) dịch âm từ chữ Sindhu, đến “Hậu Hán thư” thì chính thức dùng nước Thiên Trúc thay cho danh xưng Thân Độc. Song, Thiên Trúc hay Thân Độc đều nhằm chỉ lưu vực sông Ấn Độ, chứ không phải toàn bộ khu vực Nam Á (nằm về phía Nam dãy Himalaya) như từng quan niệm vào thời cổ đại. Đến thời kỳ nhà Đường, thế kỷ VII, từ Indu chính thức gọi là Ấn Độ. Như vậy, bắt nguồn từ chữ Sindhu chuyển sang Hindhu, rồi Hindu, Indu, India, danh xưng Ấn Độ được sử dụng nhằm chỉ tên một quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát bởi các cách chuyển ngữ đặt trong bối cảnh văn hóa khác nhau mà địa bàn Thiên Trúc co giãn không đồng nhất. Như đã đề cập, do ảnh hưởng của tiểu thuyết “Tây du ký” mà địa danh Thiên Trúc khá phổ biến, còn trong nhiều công trình nghiên cứu, người ta xếp khu vực này vào vùng văn hóa Tây Vực. Ngay cả trong tiểu thuyết của nhà văn Ngô Thừa Ân cũng mô tả sự kiện hành hương tới đất Phật thỉnh kinh của cao tăng Huyền Trang là đi Tây Thiên hay Tây Vực thỉnh (thủ) kinh, đồng thời khi hình tượng Đức Phật xuất hiện lại lấy địa danh Thiên Trúc làm bối cảnh, nên Thiên Trúc ngẫu nhiên trở thành quê hương của Phật giáo.

Các hệ nhạc kỹ liên quan đến Thiên Trúc

Theo Keishibe, nhà nghiên cứu âm nhạc nổi tiếng người Nhật Bản, muốn hiểu rõ bản chất âm nhạc Ấn Độ ở Trung Quốc phải bắt đầu từ thời Hán, đặc biệt là thời kỳ nhà Đường (thế kỷ VII - X) với sự du nhập phương Đông của âm nhạc phương Tây (hiểu là Tây Vực). Nhà Đường cai trị quốc gia kéo dài gần 300 năm (618-907), nhân lực, vật lực, tài lực… tập trung trong tay triều đình, nên có thể triển khai nhiều chính sách trên quy mô lớn, trong đó có văn hóa âm nhạc. Nhà Đường cũng đánh dấu giai đoạn giao lưu văn hóa mạnh mẽ, phía Tây tiếp xúc với Ấn Độ, Iran… phía Đông với Nhật Bản, Triều Tiên, phía Nam tới tận Lâm Ấp, vùng văn hóa Champa của nước ta. Bởi vậy, không lạ gì khi trong âm nhạc Tứ Di, có cả nhạc Lâm Ấp. Và tất cả các loại hình, văn hóa âm nhạc phong phú ấy đều tụ hội về một triều đại. Nó khiến cho văn hóa âm nhạc nhà Đường không chỉ bề thế về mặt quy mô mà còn dồi dào về chủng loại, bài bản, sắc thái...

Nhạc Thiên Trúc vốn là âm nhạc cổ Ấn Độ, sau khi du nhập Trung Hoa được kết tập vào một bộ kỹ thuộc thiết chế Mười bộ kỹ. Mười bộ kỹ hay Hai bộ kỹ, Chín bộ kỹ, Sáu bộ kỹ… đều là những tổ chức âm nhạc được điển chế hóa theo quy chế âm nhạc đời Đường. Mỗi bộ kỹ tương đương với một tổ chức âm nhạc với sự độc lập về cơ cấu, thành phần nhạc khí, bài bản, tính chất, công năng sử dụng…

Nói về các bộ kỹ, trước hết cần hiểu sơ qua về cách thức cấu thành tổ chức của nó mà điểm căn bản là dựa vào đặc điểm âm nhạc. Qua đó hé lộ tính chất dị văn trong các tổ chức âm nhạc này. Nói cách khác, các bộ kỹ bao gồm cả tính chất khác biệt về bản sắc văn hóa. Chúng vốn xuất phát bởi những nền âm nhạc đến từ nhiều quốc gia, sau khi gia nhập bối cảnh văn hóa nhà Đường được phân loại, tái cấu trúc và triển khai theo từng cơ cấu cụ thể để dễ dàng sử dụng, đồng thời phát huy được tính chất hòa hợp trong một tổng thể đa dạng. Nhạc Thiên Trúc mới đầu du nhập Trung Quốc đã mang đến những nét dị biệt, khác với âm nhạc bản địa. Nó tự nhiên cấu thành một tổ chức nằm trong các bộ kỹ mà bản thân từng bộ kỹ đã tập kết những loại hình văn hóa âm nhạc riêng biệt. Sau khi Trung Quốc thâu nhiếp, tiêu hóa rốt ráo âm nhạc Thiên Trúc, nó trở thành một trong những thành tố hội nhập sâu vào vùng văn hóa xứ sở, tạo nên thuộc tính đa dạng của văn hóa Trung Hoa.

Trong quá trình du nhập Trung Hoa của âm nhạc Phật giáo Ấn Độ nổi lên hai loại nhạc khí tiêu biểu là đàn Veena và đàn 5 dây. Chúng xuất phát từ Ấn Độ đi qua Quy Tư (con đường phía Nam núi Thiên Sơn, nay thuộc Kucha) sau thời Nam Bắc triều (thế kỷ thứ V). Bên cạnh đó, còn xuất hiện các loại đàn harp và đàn 4 dây du nhập từ Iran qua đường Khotan du nhập thời Hán (thế kỷ I-III). Qua hai tuyến đường này hình thành hai trào lưu âm nhạc lớn trong hệ thống nhạc vũ Tây Vực. Như vậy, Tây Vực vốn là vùng văn hóa rộng lớn ở phía Tây Trung Quốc, gồm nhiều quốc gia Nam Á, Trung Á... với phía Tây tiếp giáp với Imperium Romanum, phía Nam tới Ấn Độ, miền Trung tới tận Iran, tới thời kỳ nhà Nguyên (thế kỷ XIII-XIV) mở rộng tới một phần của châu Âu và châu Phi. Danh xưng rợ Hồ trong thư tịch cổ cũng nằm trong vùng văn hóa này. Nếu bỏ qua màu sắc ý thức hệ bài ngoại, văn hóa Hồ góp phần không nhỏ vào việc làm phong phú, to lớn cho văn hóa Trung Hoa. Bởi vậy, trong Mười bộ kỹ, rất nhiều nhạc khí Hồ được phân loại, sắp xếp theo thứ tự, như:

(1) Hệ Iran, có tỳ bà (ud), không hầu dọc (harp)

(2) Hệ Ấn Độ, có không hầu đầu phượng, đàn tỳ bà 5 dây (nghi là veena hoặc sitar), trống đồng, trống kiết, trống đô đàn, trống mao viên, trống kê lâu, trống đáp lạp, trống hòa, đồng bạt, đồng giác, bối.

(3) Một số loại khác không xác định rõ, như tất lật (chủng loại nhạc khí hơi sử dụng dăm kép) mà theo nhà nghiên cứu Nhật Bản Keishibe có thể thuộc hệ thống Ấn Độ hoặc Tây Vực nói chung.

Theo Keishibe, nhạc khí Hồ đời Đường đại bộ phận thuộc hệ thống Ấn Độ. Đáng chú ý là, nhạc Ấn Độ du nhập Trung Quốc theo con đường Kucha, nên có thể thấy, ngược dòng thời gian lịch sử đã đặt Kucha vào vị trí trọng yếu trên hành trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Nhạc Quy Tư lại là dòng chủ lưu trong hệ thống âm nhạc Phật giáo Ấn Độ sau thời Nam Bắc triều. Bởi vậy, trong Mười bộ kỹ có đến sáu bộ kỹ thuộc hệ thống âm nhạc Tây Vực, riêng nhạc kỹ Thiên Trúc và Quy Tư du nhập Tây Lương vào cuối đời Tấn, sau thời Nam Bắc triều tiếp tục di chuyển sâu vào lục địa Trung Hoa. Nhạc kỹ Cao Xương thì du nhập năm Trinh Quan, thời nhà Đường (626-649). Cuối niên hiệu Trinh Quan cũng chính là thời điểm nhà sư Huyền Trang lên đường sang Ấn Độ. Theo ghi chép về cuộc hành hương lịch sử này, Huyền Trang đã di chuyển qua rất nhiều quốc gia nhỏ, chứ không chỉ có hai quốc gia lớn là Trung Quốc và Ấn Độ như bản đồ hiện đại phân định. Theo thống kê trên trang Wikipedia, các nước nhỏ thuộc vùng văn hóa Tây Vực lên tới 30 quốc gia. Và Turjan (Cao Xương) nằm trên trục Thiên Sơn Bắc Lộ, giống như điểm nút cuối cùng của biên giới văn hóa Trung Quốc. Các nhạc khí sử dụng trong nhạc kỹ này đa phần mô phỏng nhạc kỹ Quy Tư.

Sáu kỹ trong hệ thống Tây Vực

Cao nguyên Pamir thuộc dãy núi Thiên Sơn nối liền khu vực Trung Á và Đông Á chạy dài qua dãy Thiên Sơn, Karakoram, Côn Lôn, HinduKush, được mệnh danh “Thông lĩnh”, núi Củ Hành theo quan niệm của người Trung Hoa. Vào thời kỳ cổ đại, phía Đông cao nguyên Pamir hình thành các quốc gia Kucha (Quy Tư), Kasghar (Sơ Lặc), Turfan (Cao Xương). Cả ba nơi này đều sử dụng không hầu dọc (harp), đàn tỳ bà, đàn 5 dây (nghi là veena và sitar), sênh, sáo ngang, tất lật, tiêu, trống kiết, trống thắt eo, trống đáp lạp, trống kê lâu, đồng bạt và bối. Đây là những nhạc khí tiêu biểu cho âm nhạc Tây Vực.

Còn phía Tây cao nguyên Pamir có ba quốc gia là Khang Quốc, An Quốc và Thiên Trúc, trong đó, Khang Quốc và An Quốc sử dụng các loại nhạc cụ, như trống chính, trống hòa (thay thế trống kiết, trống thắt eo). Nhạc kỹ Khang Quốc cũng sử dụng sáo ngang, đồng bạt, tổng cộng có bốn loại nhạc khí tiêu biểu. Theo Keishibe, nhạc kỹ An Quốc sử dụng cả tất lật đôi, một nhạc cụ khá dị thường, thậm chí ảnh hưởng từ nhạc kỹ Thiên Trúc, giống như trường hợp Quy Tư (Kucha), nhưng không sử dụng không hầu đầu phượng, đồng bạt.

Nhạc kỹ Thiên Trúc

Nhạc Thiên Trúc vốn là một trong sáu kỹ thuộc hệ thống Tây Vực, gồm Thiên Trúc, Quy Tư, Sơ Lặc, Cao Xương, An Quốc, Khang Quốc. Trong hệ thống Mười bộ kỹ, ngoài sáu kỹ này còn có thêm Yến nhạc (thay cho Văn Khang trước đó), Nhã nhạc, Tục nhạc, Tây Lương (kết hợp giữa Hồ nhạc - Tục nhạc) và Cao Ly (thuộc hệ Đông Di). Như vậy, nhạc Thiên Trúc chỉ là một kỹ trong sáu kỹ thuộc hệ thống âm nhạc Tây Vực.

Điểm đáng chú ý là nhạc Tây Lương hình thành bởi sự giao thoa giữa Thanh nhạc bản địa và nhạc Quy Tư du nhập từ Ấn Độ vào khu vực Lương Châu, tỉnh Hà Tây cuối đời Hán. Biên chế của nó gồm có chín loại nhạc khí thuộc nhạc Hồ, năm loại thuộc Tục nhạc cộng với chung, khánh thuộc Nhã nhạc. Lương Châu, tỉnh Hà Tây chính là “cửa ngõ” nối liền Trung Quốc với Tây Vực, đặc biệt với di chỉ văn hóa Đôn Hoàng tập trung, ken đặc các tư liệu thị giác liên quan đến Phật giáo, nhạc khí, biên chế, tổ chức dàn nhạc… Còn Quy Tư nay thuộc địa phận Tân Cương, vùng đất đóng vai trò truyền bá Phật giáo quan trọng trong quá khứ. Như chúng ta biết, nhà sư Kumarajiva (344-413), một dịch giả nổi tiếng, đi đầu trong việc chuyển dịch kinh sách Ấn Độ sang Hán văn vốn là người Quy Tư. Cha Kumarajiva người Ấn, ngài tinh thông cả hai ngôn ngữ, nói rộng ra là văn hóa Ấn Độ - Trung Hoa. Kumarajiva đã chuyển dịch kinh văn Phạn ngữ sang Hán văn một cách tinh luyện, đầy chất thi ca. Những câu kinh điển như: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc, sắc bất dị không, không bất dị sắc” mà ngày nay vẫn tụng niệm xuất phát bởi tài năng chuyển ngữ điêu luyện của Kumarajiva. Có người ví ngài như một nhà thơ. Kỳ thực, Kumarajiva đã thâu nhiếp tinh thần “Kinh thi” trong thơ ca truyền thống Trung Quốc để chuyển tải Kinh Phật từ tiếng Phạn mà đọc lên ngắn gọn, súc tích, ngân nga, dễ tụng, dễ nhớ, một biện pháp quan trọng hỗ trợ cho việc truyền bá Phật pháp.

Tạm thay lời kết

Có thể nói, âm nhạc Thiên Trúc nói riêng và văn hóa Tây Vực nói chung đã góp phần làm nên sự phong phú cho văn hóa Trung Hoa. Nói cách khác, văn hóa Trung Hoa đã hấp thu văn hóa cổ đại Ấn Độ để làm nên diện mạo văn hóa cổ truyền của mình. Bởi vậy, trong rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống từ hý khúc cho đến âm nhạc đều thấp thoáng, ẩn hiện dấu vết văn hóa Ấn Độ. Có điều, sự thành công của người Trung Hoa xưa nằm ở chỗ họ đã thâu nhiếp một cách triệt để, tiếp biến sáng tạo, giống như câu thành ngữ “mật thành mà chẳng thấy hoa đâu” nhằm tán thán tài nghệ của loài ong. Theo đó, loài ong đã tinh luyện ra món mật ngọt ngào từ rất nhiều chủng loại nhụy hoa, sau khi có được thành phẩm, chúng ta không thấy bóng dáng các loài hoa đâu. Đó chính là thành quả kết tinh bởi sự tiếp biến một cách sáng tạo. Nói về âm nhạc Thiên Trúc hay rộng ra là văn hóa cổ Ấn Độ, nó đã hòa quyện vào văn hóa truyền thống đến độ rất khó bóc tách các lớp văn hóa cấu thành, qua đó đã thúc đẩy một sự thay đổi toàn diện trong nền văn hóa Trung Hoa.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 56
    • Số lượt truy cập : 7044690