Thông tin

THIÊN TÚNG ĐẠO NHÂN,

MỘT TÁC GIA VĂN HỌC THẾ KỶ XVII

 

NHẬT CAO*

 

Sử sách ghi chép công việc trị quốc an dân, mở mang đất nước của Nguyễn Phúc Chu xứng đáng là bậc minh chúa. Rất tiếc, những tác phẩm văn học của ông ít được phổ, nên hậu thế quên dành cho ông một vị trí xứng đáng trong văn học sử Việt Nam .

Bước đầu chúng tôi xin giới thiệu một số tác phẩm của tác gia Nguyễn Phúc Chu sau đây:

1. Bài “Bổn sư Hải ngoại kỷ sự tự”. Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu viết bài tựa cho tập sách “Hải ngoại kỷ sự” của Hòa thượng Thạch Liêm Thích Đại Sán, ghi rõ: Đại Việt Quốc vương Nguyễn Phúc Chu, đệ tử thọ giới tại gia Bồ Tát, pháp danh Hưng Long. Kính lễ viết tại phương trượng Tịnh Danh ở nội viện Giác vương, cung phía Tây vào ngày tốt tháng 5 năm Giáp Tý (1696). (Xem Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, 1963).

2. Bài “Quốc Chúa Thiên Túng Đạo Nhân ngự chế thơ và tự, sắc cho tham tri Chánh Đoán Sự Đông Triều Hầu Trần Đình Ân”. Bài này được Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm viết chữ cho khắc vào bia đá “Tứ công thần bi” dựng trước chùa Bình Trung, nơi dưỡng lão của Trần Đình Ân sau khi từ quan. Bia dựng vào ngày 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1703), hiện còn tại chùa Bình Trung, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

3. Bài  văn “Ngự kiến Thiên Mụ tự”. Khắc vào ngày tốt tháng 10 năm Ất Mùi (1715). Gồm 1.260 chữ, nội dung trình bày tư tưởng cao siêu của đạo Phật. Công việc xây dựng Thiên Mụ thành một danh lam lớn nhất ở Nam Hà để cầu nguyện cho đất nước vững bền, nhân dân hạnh phúc, triều đại thịnh trị lâu dài. Cuối bài văn tác giả đúc kết tư tưởng chính bằng bài minh:

Việt quốc chi nam hề, giai thủy giai sơn

Bửu sát chi tráng hề, nhật chiếu thiền quan

Tính chi thanh tịnh hề, khê hưởng sàn sàn

Quốc chi điện an hề, tứ cảnh u nhàn

Vô vi chi hóa hề, Nho Thích đồng ban

Ký tư thắng khái hề,nhơn quả hồi hòan

Kiến tiêu lập đích hề,thành tồn tà nhàn.

Trần Đình Sơn dịch:

Phương Nam nước Việt chừ, đẹp núi đẹp sông

Chùa chiền tráng lệ chừ, trời chiếu thiền môn

Tánh vốn trong lặng chừ, tiếng suối êm đềm

Nước nhà bền vững chừ, bốn cảnh yên vui

Vô vi giáo hóa chừ, Nho Thích cùng tôn

Viết  lời để lại chừ, nhân quả xoay vần

Dựng bia nêu tỏ chừ, chánh giữ tà ngăn.

4. Bài ký và tán khắc trên khánh đá tôn trí tại Quốc tự Thiên Mụ

Khắc vào ngày 3 tháng 10 năm Giáp Thìn (18/11/1724). Thời Tây Sơn, chùa Thiên Mụ bị triệt hạ làm đàn tế đất, chuyển khánh quý vào cung điện tân triều. Hiện nay khánh được lưu trữ tại Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế .

Âm bài tán :

Thạch sanh tú thủy, ngọc xuất Côn sơn

Tề an tích nhật, Trừng thủy thử gian

Đắc chi bất dị, ngộ chi diệc nan

Sắc phân ngũ thái, thanh đới kim am

Trúc thành vân khánh, bát âm liệt ban

Vĩnh trấn cổ tự, tường thụy vạn niên.

Trần Đình Sơn dịch:

Nước tốt sanh đá, non Côn xuất ngọc

Từ xưa vẫn yên, dòng nước sông Trừng

Được nó không dễ, gặp nó càng khó

Sắc phô năm màu, tiếng tựa chuông ngân

Chạm thành khánh mây, bày theo nhạc lễ

Để trấn chùa xưa, điềm lành vạn thuở.

5. Bốn bài thơ thương khóc Kính phi

Kính phi Nguyễn Thị Lan mất, Quốc chúa vô cùng thương tiếc cho lập trai đàn siêu độ tại chùa Thiên Mụ. Ông có viết bốn bài thơ trên vách chùa. Bài cuối:

Nhữ thọ tuy vi, phúc tự trường

Nhân truyền phúc trạch Nguyễn cung hương

Phao tư kim ngọc doanh song khíp

Lưu thử nhi tôn mãn nhất đường

Đối cảnh kỷ hồi hàm biệt lệ

Liên tài nhất thế động trung trường

Kim bằng diệu pháp không vương lực

Tiến bạt u hồn dật thượng phương.

Dịch nghĩa:

Tuổi thọ ngắn thôi phúc lại dài

Phúc lưu cung Nguyễn ngát hương trời

Quăng đi vàng ngọc đầy hai tráp

Để lại cháu con nối vạn đời

Đối cảnh đòi phen cầm giọt lệ

Thương tài một kiếp động lòng ai

Nhờ phép Như Lai mầu nhiệm ấy

U hồn siêu độ thoát luân hồi.

(Theo Đại Nam liệt truyện, bản dịch Viện Sử học, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993)

Ngoài những tác phẩm may mắn được bảo tồn trong các chùa chiền xưa, hoặc sử sách ghi chép được phần nào sau thời nội chiến Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn. Đặc sắc nhất là các bài thơ đề vịnh phong cảnh vùng Thuận Quảng của Nguyễn Phúc Chu mà chúng tôi phát hiện được trên đồ sứ ký kiểu như

THIÊN MỤ HIỂU CHUNG

Ký bạch đông phương túy tích trùng,

Thự quynh tiệm dữ bách hoa nùng.

Tà khan vân ảnh giang can nguyệt,

Bất thính triều thanh sơn tự chung.

Độc ngã nhàn tình y phiếu miễu,

Kỷ nhân trần mộng đắc thung dung.

Du du dư vận chư thiên lý,

Phạn ngữ dao ưng đáp hiểu chung.

Đạo nhân thư

Trần Đình Sơn dịch:

CHUÔNG SỚM THIÊN MỤ .

Biêng biếc phương trời buổi rạng đông,

Trăm hoa ửng nắng sắc hương nồng.

Vẳng nghe, sóng dậy chuông chùa điểm,

Ghé mắt, mây phô nguyệt bến lồng.

Riêng tớ, tình suông về thăm thẳm,

Mấy ai, cảnh mộng tới thong dong,

Mang mang dư vận từng không tỏa,

Kinh Phạn hồi chuông sớm quyện lòng.

HÀ TRUNG YÊN VŨ

Hải khí sơn phong táp táp kinh

Tiệm khan yên thấp tán thiên thanh

Ngư đăng kỷ điểm tri giang ngạn

Lữ khách lạc tiêu thính vũ thanh

Thiền tụng bất văn u khánh vận

Hương tư nan xích cố nhân tình

Việt Nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh

Dục thiến đan thanh tả vị thành.

Đạo nhân thư

Trần Đình Sơn dịch:

MÙ TỎA HÀ TRUNG

Sóng trào gió rít nghĩ mà kinh

Mù tỏa dần tan mây trắng xanh

Bến cũ đèn chài thấp thoáng điểm

Mưa buồn lữ khách lắng thâu canh

Phật kinh không vẳng dư âm khánh

Quê cũ ai hay nổi nhớ mình

Việt Nam cũng có Tiêu Tương cảnh

Muốn vẽ mà sao vẽ chẳng thành.

ẢI LĨNH XUÂN VÂN

Việt Nam xung yếu thử sơn điên

Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên

Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh

Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên

Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết

Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền

Duy nguyện hải phong xuy tác vũ

Chính nghi thiên lý nhuận tang điền

Đạo nhân thư

Trần Đình Sơn dịch:

Mây xuân đỉnh ải

Việt Nam hiểm trở có non này,

Thục đạo nghìn trùng chót vót thay!

Chỉ thấy mây che ba đỉnh lớn,

Nào hay người ở mấy từng đây?

Không khe suối , cũng dầm xiêm áo.

Chẳng tuyết băng sao buốt tóc mày.

Gió biển nguyện xin thành mưa móc,

Ruộng dâu ngàn dặm tốt tươi bày.

TAM THAI THÍNH TRIỀU .

Kỳ tú Tam Thai tủng bích phong

Trung hư ngoại hữu bạch vân phong

Tự lai Việt hải văn xuân lãng

Như tại Bà dương thính thạch chung

Bất đoạn phong thanh bôn bạch mã

Hoàn nghi vũ sắc khởi thương long

Dục tầm thanh mộng hà tằng khán

Hưởng triệt nham tiền kỷ thụ tùng

Đạo nhân thư

Trần Đình Sơn dịch:

Ở NÚI TAM THAI NGHE SÓNG

Tam thai chất ngất đỉnh non xanh

Động vắng mênh mông mây phủ quanh

Dào dạt sóng Xuân trào Việt hải

Ngân vang chuông đá vọng Dương thành

Gió reo ngựa trắng liên hồi trẩy

Mưa cuốn rồng xanh thấp thoáng đoanh

Mộng đẹp mong tìm sao chửa thấy

Rì rào vách núi cụm tùng xinh

THUẬN HÓA VÃN THỊ

Noãn yên tịch chiếu luyến giang tân

Tế thính oanh đề xứ xứ xuân

Vãn thị chỉ khan hồng phấn nữ

Thông cù bất đoạn ỷ la trần

Thời cô bạch tửu năng diên khách

Nhật dụng thanh tiền khước tiện dân

Giao dịch khởi vô hành dữ đấu

Hoàn dư phong tục Cát Thiên thuần      

Đạo nhân thư

Trần Đình Sơn dịch:

Chợ chiều Thuận Hóa

Khói ấm hoàng hôn quyện bến sông

Lắng nghe oanh hót bạt ngàn xuân

Chợ chiều tha thướt đàn con gái

Suối lụa tung hê nẻo bụi hồng

Rượu trắng vui vầy mua đãi khách

Tiền đồng trao đổi tiện cho dân

Bán buôn lọ phải cần cân đấu

Nếp Cát Thiên xưa vẫn thấm nhuần

Qua các bài thơ vịnh cảnh trên, người đọc cảm nhận được tình cảm chan chứa đạo đời, niềm tự hào dạt dào của tác giả đối với vùng đất phương Nam và đã góp phần làm nên nền văn học Nam Hà. Hy vọng sẽ có nhiều công trình nghiên cứu về danh nhân Nguyễn Phúc Chu để xác định vị trí quan trọng của ông trong lịch sử mở mang, xây dựng đất nước và trong văn học sử Việt Nam.



* Nhà nghiên cứu, Ban PGVN, VNC Phật học Việt Nam.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 19
    • Số lượt truy cập : 6112203