THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN HỮU KHA
1. Bài thơ làm năm 13 tuổi
Năm 1915, một hôm Nguyễn Hữu Kha đi chợ Hà Đông về, dọc đường rẽ vào làng Mọc (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội) nghỉ chân, thấy một khu vườn đẹp. Cậu bé vào xem, thì ra là khu lăng mộ của Lê Hoan (quan đại thần triều Nguyễn, người đã cầm quân đàn áp cuộc khởi nghĩa của cụ Hoàng Hoa Thám được thực dân Pháp ban thưởng hậu hĩ).
Uất ức trước cảnh xa hoa phú quí của bè lũ quan lại trái ngược với cảnh sống khổ cực của đồng bào ta, ông đề một bài thơ chữ Hán.
Thanh thần điếu cửu nguyên
U tình chủng chủng huyên
Thế thái cạnh phú quí
Nhân tình tu ngân tiên
Công cừu bái ngạch thượng
Nghĩa vụ phóng tâm biên
Cụ Vũ Tuấn Sán dịch :
Sớm mai qua nơi nghĩa đa
Muôn tiếng u hồn vang rền
Thói đời bon chen phú quí
Tình người ham đến bạc tiền
Thù chung vái tạc trên trán,
Nghĩa vụ ghi tạc không quên.
TS. Đinh Công Vĩ dịch :
Tinh mơ qua viếng cửu tuyền,
U tình hồn phách náo huyên khắp vườn.
Bất bình phú quí bon chen,
Tình người dồn hết vào tiền vào tiên.
Ngước nhìn biển ngạch bề trên,
Nghĩa vụ canh cánh sao quên thù này.
2. Bài thơ làm năm 1948
Vô đề
Ngô thuỳ dữ qui
Phi thử chi qui
Bất phỉ bất khải
Bất phẫn bất phát
Cụ Vũ Tuấn Sán dịch nghĩa:
Ta về cùng ai
Không phải chuyến này
Không bực dọc không mở được đường đi
Không thắc mắc cố tìm, không thấy được bước tiến.
Ghi chú: Bài này chúng tôi sưu tầm được trong cuốn sổ (chép tay 13 tác phẩm của Thiều Chửu) hiện do Thượng toạ Tiến sĩ Thích Thanh Đạt, chùa Quán Sứ, Hà Nội giữ. Người sao là ông Trần Thanh Tuấn (quê ở làng Tía, Thường Tín, Hà Tây), nguyên đệ tử của Hoà thượng Trí Hải theo học Thiều Chửu những năm 1947 - 1950 ở Cao Phong (Phúc Yên), Thái Nguyên. Năm 1950 Thiều Chửu giới thiệu ông Trần Thanh Tuấn vào bộ đội Thông Tin Liên lạc. Ông Trần Thanh Tuấn đã anh dũng hy sinh năm 1960 ở Thượng Lào.
Bài thơ ghi ở cuối tác phẩm Nghiên cứu duy thức theo khoa học, Phật học Cao Phong tràng, ngày 23 - 9 năm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mậu Tý (1948).
Về bài thơ này cụ Vũ Tuấn Sán giải thích:
Nguyên văn hai câu dưới : Bất phỉ bất khải, Bất phẫn bất phát chắc có chỗ nhầm, đã được sửa lại theo đúng câu trong Luận ngữ, đó là câu nói của Khổng Tử, có nghĩa: không bực dọc (vì sự yếu kém của mình) (thì ta) không gợi mở đường đi; không thắc mắc (muốn tìm hiểu học hỏi) (thì ta) không giúp cho tiến bước.
Tám chữ trên được hiểu trong bản dịch hơi khác nghĩa vốn có trong sách Luận ngữ.
Bình luận bài viết