Thông tin

THÓI SÙNG BÁI QUYỀN LỰC TÁC ĐỘNG XẤU TỚI CHỮ HÁN

 

NGUYỄN HẢI HOÀNH

 


 

Người Hán cổ đại đặc biệt sùng bái những người nắm quyền lực, trước hết là vua chúa. Đó là do người ta được dạy rằng quyền lực là thứ thần linh ban cho vua chúa để cai trị dân chúng; sùng bái quyền lực là sùng bái thần linh - sức mạnh siêu nhiên chẳng ai dám chống lại.

Tư tưởng “Lễ giáo” trong học thuyết Khổng Tử đã củng cố thói sùng bái quyền lực của người Trung Quốc. Xã hội chia làm các tầng lớp, người ở tầng lớp dưới phải phục tùng người ở tầng lớp trên. Dân Trung Quốc không có tôn giáo riêng nhưng có tín ngưỡng thờ tổ tiên: mỗi gia tộc đều thờ tổ tiên gia tộc mình, toàn xã hội thờ tổ tiên dân tộc mình. Tổ tiên trở thành đại diện của quyền lực, của truyền thống gia đình và dân tộc, và bị lợi dụng để ngăn cấm thế hệ sau làm trái với cái gọi là “truyền thống”. Bất cứ cái gì người xưa nghĩ ra, làm ra, viết ra đều được các thế hệ sau cho là đúng, là kiểu mẫu noi theo. Ngay Khổng Tử cũng nói ông chỉ “Thuật nhi bất tác”, tức không sáng tác mới mà chỉ thuật lại những gì người xưa đã viết. Chẳng hạn “Kỳ thư” Kinh Dịch được ca ngợi tới mức có người cho rằng sách này ẩn chứa tất cả các khái niệm khoa học xưa nay và sau này, toàn bộ nội dung khoa học hiện có và chưa có của loài người đều được tổ tiên người Hán viết trong Kinh Dịch, chỉ đợi hậu thế khám phá; vì thế dựa vào kinh điển này Trung Quốc chắc chắn sẽ bá chủ thế giới!

Chữ Hán là đại diện chủ yếu của văn hoá Trung Hoa. Xem xét lịch sử chữ Hán có thể thấy thói sùng bái quyền lực là một trong các yếu tố đã tác động xấu tới sự phát triển chữ Hán.

Mọi người đều biết, do có tính chất biểu ý mà chữ Hán có cấu tạo phức tạp, khó học, khó nhớ, khó viết, khó dùng; vì thế viết nhầm chữ, viết sai chữ Hán là chuyện thường tình. Người Trung Quốc thường nói “Không sai nhầm thì chẳng thành sách (無錯不成書 Vô thác bất thành thư)”, suy ra nghĩa là chẳng sách nào tránh khỏi sai nhầm trong việc dùng chữ Hán.

Chủ tịch Viện Khoa học Trung Quốc Quách Mạt Nhược (được coi là người biết nhiều chữ Hán nhất) từng ca cẩm: “Tôi dùng chữ Hán đã 60 năm mà giờ đây khi đọc sách vẫn phải tra tự điển”. Nhà Hán học người Đức nổi tiếng Wolfgang Kubin nói đi đâu ông cũng phải kè kè mang theo một cuốn tự điển chữ Hán. Ngày nay, điện thoại thông minh có thể thay cho một số tự điển chữ Hán thông dụng, mang theo người rất tiện dùng, giúp tránh được các sai sót khi viết chữ Hán. Năm 2007, bà Thiết Ngưng 铁凝 Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc 15 năm nay (ngang cấp Bộ trưởng) khi viết tay đề từ 4 chữ “Phong hoa chính mậu 风华正茂” cho tạp chí ngành giáo dục có tên “Mỹ văn”, từng viết chữ Mậu 茂 với bộ dưới viết nhầm là chữ Thú 戍 (lẽ ra phải viết chữ Mậu 戊), người đọc chẳng ai biết là chữ gì, tra tự điển không thấy, làm dư luận “nổi sóng” tưởng là chữ mới xuất hiện. Nếu bà chịu khó tra cứu tự điển rồi hãy viết thì đã chẳng xảy ra sai sót này.

Chữ Hán viết thừa thiếu nét hoặc sai nét, sai bộ thủ…, làm thành thứ chữ không có trong tự điển, gọi là “Chữ sai” 错字, Thác tự, cuozi. Ví dụ chữ Cửu 九 trong chữ Nhiễm 染 bị viết sai (thừa nét) thành chữ Hoàn 丸. Trong ví dụ trên, bà Thiết Ngưng đã phạm loại sai lầm “Viết chữ sai”.

Chữ viết nhầm sang chữ khác, là thứ chữ có trong tự điển, gọi là “Chữ khác”, 别字, Biệt tự, biezi. Ví dụ 按部就班 viết thành 按部就搬, ở đây chữ Ban 班 viết sai thành chữ Ban 搬 (chữ này có trong tự điển), gây hiểu sai ý nghĩa. Hoặc chữ Tuý 粹 trong Tinh tuý 精粹 viết thành chữ Tuỵ 萃, một chữ khác, có trong tự điển. Loại sai lầm này cực kỳ phổ biến, người viết và người đọc thường không phát hiện ra.

Cả hai loại chữ sai nói trên gọi gộp là “Chữ Sai-khác”, 错别字, Thác biệt tự, cuobiezi. Hầu như chẳng ai tránh được Chữ Sai-khác. Cho tới nay nó vẫn tiếp tục gây tai hoạ cho ngành văn học, văn bản và xuất bản ở Trung Quốc. Khi xuất bản bộ Tuyển tập Mao Trạch Đông 4 tập, tổng cộng chỉ có khoảng 1 triệu chữ, đã phải tập trung 40 chuyên gia ngôn ngữ giỏi để soát chữa bản đưa in. Quy định mỗi chuyên gia phải soát chữa 5 lần phần văn bản được phân công, nhưng trên thực tế đã phải soát chữa 10 lần, cuối cùng thực hiện được yêu cầu hoàn toàn không có sai sót gì về chữ nghĩa. Tốn kém bao nhiêu là sức người sức của cùng thời gian.

Viết sai chữ thì sửa chứ đâu phải sai lầm gì ghê gớm không sửa được. Nhưng một khi kẻ viết sai chữ là kẻ có quyền lực thì người Hán cổ vốn quen sùng bái quyền lực lại không dám nói là đương sự viết sai, mà nghĩ ra lắm mẹo để bào chữa cho đương sự thoát khỏi cái tội viết sai.

Cách bào chữa phổ biến nhất là họ ngụy biện rằng đấy không phải là sai nhầm về chữ nghĩa mà chẳng qua chỉ là đương sự cố ý dùng chữ khác thay cho chữ thường dùng (gọi là Bản tự 本字, Chữ gốc) mà thôi. Thứ “Chữ Sai-khác” ấy còn được gọi là “Thông giả tự, tức Chữ Thông giả” (通假字, Tongjiazi). Đây là một biểu hiện của tâm lý sùng bái quyền lực của người Hán cổ đại. Tư tưởng Lễ giáo của Khổng Tử buộc thần dân luôn luôn phải nghĩ rằng kẻ có quyền lực bao giờ cũng đúng, kể cả trong lĩnh vực chữ viết.

Kiểu tư duy phi logic ấy mang lại hậu quả cực kỳ tai hại làm cho chữ Hán đã phức tạp lại càng thêm rắc rối phức tạp - góp phần sinh ra chữ đa âm đa nghĩa, một tai họa khiến cho chữ Hán vốn đã kém chính xác lại càng kém chính xác và càng khó học khó dùng. Thư tịch cổ Trung Quốc vốn dĩ đều viết theo thể văn “Văn ngôn” quá ư vắn tắt khó hiểu, cả bộ sách viết liền tù tỳ một dòng, không có ngắt câu, chẳng biết đâu là chủ ngữ, vị ngữ… lại dùng rất nhiều chữ Thông giả, làm cho thư tịch cổ trở nên cực khó hiểu, dễ hiểu nhầm.

Xin nêu vài ví dụ về chữ Thông giả:

Thư tịch cổ có chép “Chuyện Tăng Tử giết lợn” của Hàn Phi Tử. Đại để như sau:

Vợ Tăng Tử đi chợ, con trai nhỏ khóc nhè đòi theo. Bà dỗ: “Con về nhà đi, lát nữa mẹ đi chợ về sẽ làm thịt con lợn cho con ăn!”. Khi đi chợ về, thấy chồng đang bắt con lợn trong chuồng ra, bà ngăn lại, phân bua: “Tôi dỗ nó thế thôi, chứ có định giết lợn đâu”. Tăng Tử nói: “Không được dạy trẻ con thói dối trá! Người lớn nói thế nào thì phải làm thế ấy!”. Nói đoạn ông đè con lợn ra chọc tiết. Tăng Tử (505-435 TCN) là triết gia nổi tiếng Trung Quốc, một trong 4 học trò của Khổng Tử được thờ trong Khổng miếu, được tôn vinh là “Tôn thánh”, chỉ sau “Phục thánh” Nhan Uyên.

Trong sách cổ, câu “Con về nhà đi…” nguyên văn viết là “女還,顧反為女殺彘”. Ở đây, chữ thứ nhất và thứ 6 lẽ ra phải là chữ Nhữ 汝 [rǔ] (tức 你, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai), nhưng do viết nhầm (thiếu bộ thủy), chỉ còn lại chữ Nữ 女 [nǚ] (đàn bà, con gái), đọc lên rất vô lý. Có thể đoán ngay là viết sai chữ, định viết 汝nhưng lại viết 女. Như vậy 女 là Chữ Khác của 汝. Song le chẳng lẽ con cháu lại dám nói tổ tiên viết sai ư? Để giữ vững truyền thống người Trung Quốc không được phép chê trách tổ tiên mình, thế là ai đó đưa ra giải thích nguỵ biện: Đây là tổ tiên ta dùng chữ 女 thay cho chữ 汝 mà thôi, hai chữ này có nghĩa như nhau, đều là 你 (đại từ nhân xưng ngôi thứ hai). Ở đây 女 là “Thông giả tự” dùng thay cho “Bản tự” 汝.

Lời phán ấy được mọi người hả hê công nhận. Từ đó trở đi chữ Nữ 女 mặc nhiên có thêm một nghĩa nữa là 你 với một âm đọc là [rǔ]. Từ chỗ chỉ có một âm một nghĩa, nay 女 có thêm âm và nghĩa thứ hai, thành chữ đa âm đa nghĩa. Rốt cuộc chỉ vì sùng bái tổ tiên mà người học chữ Hán phải khổ sở gánh thêm một gánh nặng: Buộc phải nhớ cái nội dung mới thêm ấy. Đa âm đa nghĩa làm cho chữ Hán trở nên tù mù, kém chính xác, rất khó học khó dùng.

Tương tự, trong sách Luận Ngữ có câu: “唯女子與小人為難養也,近之則不遜,遠之則怨 Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán”. Có nhiều cách hiểu câu này, trong đó có cách hiểu như sau: “Đàn bà và tiểu nhân đều rất khó trau dồi đức tính khí khái chính trực, rất khó tu dưỡng thân, tâm, tính, mệnh. Cho nên khi chung sống với họ (người quân tử) phải chú ý giữ khoảng cách; gần họ thì dễ khiến họ thất lễ; xa họ lại dễ khiến họ oán giận”. Song le, vì giải thích như thế có nghĩa là chê Khổng Tử khinh miệt phụ nữ nên có người nguỵ biện: Chữ “女 nữ” ở đây vốn là chữ “汝 nhữ”, nghĩa là 你 (tiếng Anh: you) nhưng tác giả không viết 汝, mà cố ý viết “女”. Rốt cuộc câu nói trên chỉ là câu Khổng Tử mắng các học trò của cụ: “Bọn các ngươi là đồ khó dạy, (ta) gần các ngươi thì các ngươi nhờn nhã, (ta) xa các ngươi thì các ngươi oán trách (ta)!” - câu này hoàn toàn không có ý khinh miệt phụ nữ. Một cách giải thích làm bùi tai cụ Khổng và những người theo cụ.

Cũng có thuyết giải thích sự việc kể trên theo hướng khác, như thuyết đọc theo phương ngữ, thuyết chữ Hán ngày xưa chưa hoàn thiện... nhưng theo chúng tôi cách giải thích theo thuyết “Chữ Thông giả” là hợp lý hơn cả. Thuyết này đại diện cho tư duy phi logic, tâm lý sùng bái tổ tiên, sùng bái quyền lực của người Hán thời xưa.

Sách sử kể chuyện một lần vua nhà Thanh du hành đến đất Tô Châu, xa giá đi qua cái cổng lớn có đắp chữ 滸墅關, nhà vua khoái trá cao giọng đọc [xǔ shù guān]; chữ thứ nhất 滸 ngài đọc là [xǔ]. Các đại thần đi theo há hốc mồm ngạc nhiên, biết là nhà vua nhầm chữ 滸 với chữ 許; xưa nay 滸 đều đọc [hǔ] . Nhưng ai dám bảo vua sai nhỉ? Và thế là sau đó giới quan lại-học giả “sáng tác” ra quan điểm: chữ 滸 ngoài âm [hǔ] (hử) và nghĩa “bờ nước” ra, lại có thêm âm thứ hai là [xǔ] (hứa) và nghĩa thứ hai là tên một địa điểm ở Tô Châu. Chữ 滸 vốn đơn âm đơn nghĩa bỗng dưng trở thành chữ đa âm đa nghĩa, nghĩa là thêm rắc rối, chỉ làm khổ người học và dùng chữ!

Cách đây ít lâu, tôi đọc báo Trung văn gặp từ 苗圩 là họ tên của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thông tin Trung Quốc; phải tra tự điển mới biết đây là chữ đa âm đa nghĩa: 圩 có hai âm đọc là [xū] và [wéi]; vậy tên ông này nên đọc thế nào? Không thể nhờ ai trả lời giúp, đành phải vào Google, gõ (tiếng Anh) hỏi tên Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thông tin Trung Quốc là gì, mới tìm thấy giải đáp: Miao Wei. Nếu không có Internet thì chịu chết.

Trong Hán ngữ có không ít chữ Thông giả. Như “Luận Ngữ thập tắc” có câu: 子曰: “學而時習之, 不亦說乎?”, ở đây chữ 說 (nghĩa là “nói”) là Thông giả tự của chữ 悦 [yuè] nghĩa là “vui mừng”. Thật vô lý: tự dưng chỉ vì tác giả Luận Ngữ viết nhầm chữ 悦 thành 說 mà từ đó trở đi chữ 說 trở thành chữ đa âm đa nghĩa: có thêm nghĩa mới (vui mừng) và âm đọc mới [yuè].

Sách “Từ Hải” thu gom được 2.641 chữ đa âm, trong đó 2.112 chữ có hai âm, 422 chữ ba âm, 81 chữ bốn âm, 18 chữ 5 âm, 7 chữ 6 âm, và một chữ có những 8 âm –– đó là chữ 那. Sách “Thông giả tự đại toàn” (Tự điển Thông giả tự) liệt kê khoảng hơn 200 Thông giả tự thường dùng –– một con số làm nản lòng người học chữ Hán.

Chữ đa âm đa nghĩa chiếm khoảng 10% tổng số chữ Hán - chẳng những là gánh nặng quá lớn cho người học chữ Hán mà còn làm cho chữ Hán kém chính xác, và do đó không thể quốc tế hóa được. Hậu quả làm cho văn hóa Trung Quốc khó truyền bá ra thế giới, sức mạnh mềm của nước này khó có thể tăng theo sức mạnh cứng. Trung văn là một trong 6 ngôn ngữ làm việc của Liên Hợp Quốc, nhưng tỷ lệ dùng chữ Hán ở tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này chưa được 1% , trong khi tỷ lệ dùng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha là 80, 15 và 4%. Thực tế này góp phần làm cho người Trung Quốc cho tới nay vẫn thiếu tự tin về nền văn hóa của họ.

Có thể nói chữ Hán quá thiếu chính xác! Không có thầy dạy, không có công cụ tra cứu thì không thể đọc chính xác chữ Hán và do đó khó hiểu đúng các thư tịch cổ. Người Trung Quốc đã bỏ rất nhiều công sức tìm cách sửa cho chữ Hán chính xác hơn. Nhưng xem ra khó có thể đạt kết quả như ý, vì nhược điểm đó đã tồn tại hàng ngàn năm. Giới học giả thời xưa thừa biết nạn Chữ Thông giả làm cho chữ Hán phức tạp hơn, nhưng họ không ngăn cản tình trạng đó. Tất cả chỉ vì tầng lớp vua quan phong kiến vốn chủ trương dùng chữ Hán làm công cụ độc quyền kìm kẹp trí tuệ của dân chúng, thực hiện ngu dân hóa để  họ dễ bề cai trị, dĩ nhiên càng muốn chữ Hán phức tạp, khó học hơn. Trong giới ngôn ngữ học Trung Quốc ngày nay có quan điểm cho rằng “Chữ Hán là báu vật của văn minh cổ đại, lại là gánh nặng của văn minh hiện đại”. Giải quyết gánh nặng ấy như thế nào là câu hỏi để ngỏ chờ các thế hệ sau của người Tr ung Quốc giải đáp.

Tóm lại, thói sùng bái quyền lực của người Hán cổ đại đã gây tai họa lớn cho ngôn ngữ Trung Quốc.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 22
    • Số lượt truy cập : 6713066