Thông tin

TQ13 - ĐẠO PHẬT NHƯ MỘT KINH NGHIỆM SỐNG

ĐẠO PHẬT NHƯ MỘT KINH NGHIỆM SỐNG 

MAI THỌ TRUYỀN

 

Đã lâu rồi, dưới ngòi bút một học giả ngoại quốc, tôi được đọc câu: "Toàn bộ giáo pháp của đức Phật là lịch sử cuộc đời của chính ngài". Thú thật, lúc ấy tôi không hiểu rõ tác giả muốn nói gì, bởi lẽ tôi chưa quan niệm được cũng chưa thấy được mối liên quan trọng hệ giữa lời nói và việc làm. Ở trường tôi, ở làng tôi, biết bao ông thầy chữ Pháp, ông đồ chữ Nho dạy hay quá, nói hay quá, hay cho đến nỗi người người khen ngợi và kính trọng như những nhà đại thông thái, đại đạo đức. Tôi chưa hề thấy thiên hạ đòi hỏi ở các vị ấy điều gì hơn.

Về sau, đọc một học giả khác, tâm trí tôi mới được khai thông phần nào, nhờ mấy dòng sau đây: "Không một lời dạy nào của Phật mà chẳng xuất phát từ những kinh nghiệm bản thân của Ngài. Vì vậy chỉ một lời nói chất phác, chỉ một cử chỉ tầm thường, thậm chí chỉ sự hiện diện im lìm của đức Phật cũng đủ làm tỏa ra xung quanh Ngài như một vùng hào quang mà sức hấp dẫn thật là phi thường, không như những ông giáo sư triết học, ở giảng đường thật là hùng biện, thật là siêu việt, nhưng khi về nhà, lại ở ăn lắm khi thua bác thợ vá giày ngồi trước cửa". Tôi tự nghĩ, vậy ra phải làm trước sau mới được nói, và đột nhiên tôi liên tưởng đến câu "Tri hành hợp nhất". Có biết mới có nói. Nhưng thế nào gọi là biết, khi có cái biết học lóm, cái biết tầm chương trích cú mà Phạm Quỳnh gọi là mọt gặm sách, cái biết do thành kiến, tập tục, tin tưởng, lưu truyền, hun đúc... Trước khi tôi được ra thăm Huế, có thể nói là tôi "biết " Huế nhiều hơn khi tôi đặt chân lên đất cố đô và sống ở đó mấy hôm. Tôi đã nói vanh vách về sông Hương núi Ngự, về Hoàng cung, Lăng tẩm, và nếu tôi muốn ra mặt nhà thông thái, tôi còn có thể, với một ít công tìm tòi, nói luôn về lịch sử, diện tích, dân số của đất Thần kinh. Nhưng xin lỗi, đừng hỏi tôi về cái thú ngủ đò, về hương vị của chén chè hột sen bán rong cạnh bờ sông trước Phú Văn Lâu, hay về giọng ngân rung động của tiếng chuông chùa Linh Mụ... Xin đừng hỏi, vì tôi đã sống ở Huế đâu mà có những kinh nghiệm về những điểm ấy. Cái biết của tôi về thành phố cổ kính này toàn là những cái thấy nghe của người khác, tôi chỉ là chiếc máy ghi âm phát lại cho thính giả tôi nghe những nhận định, quan sát, cảm giác thâu thập đó đây. 

Về sau lâu nữa, tôi được đọc một nhận xét khác làm cho tôi mất rất nhiều thời giờ suy ngẫm mà vẫn không tìm ra ý nghĩa chơn xác: "Từ, Bi, Hỷ, Xả đối với chúng ta, là những khái niệm, nhưng đối với Phật là những gì chơn thật như trái xoài nắm trong lòng bàn tay". Bác thì không dám bác, nhưng tin thì thật khó tin. Làm sao một khái niệm lại là một vật cụ thể được?

Nay già, tôi thấy ba lời nói vừa nhắc lại xác nhận cái hữu lý của câu "Học nhi thời tập chi" trong sách Đại học. Thật vậy, học mà không tập không hành, thì cái học chưa phải là thật học và cũng không thật là hữu dụng. Chẳng những thế, cái học ấy còn có thể là một chướng ngại trên đường giải thoát như Phật và chư Tổ đã dạy. Có hành mới có kinh nghiệm và kinh nghiệm mới là cái biết thật biết, cái biết của chính mình.

Buổi nói chuyện hôm nay lấy câu "Đạo Phật như một kinh nghiệm sống" làm đề tài.

Tôi kính xin quý vị nể tình cho phép tôi nói về những kinh nghiệm của tôi. Dầu biết rằng cái "Tôi" là cái khả ố, tôi chẳng lẽ lại đi nói đến những kinh nghiệm của người khác, là điều tôi không thể biết chắc được. Ai uống nước nấy biết nóng lạnh. Nhưng xin thưa trước để quý vị không thất vọng: Những gì tôi sắp trình bày không có gì thâm sâu và siêu việt cả, chỉ là một ít hoa dại trái rừng mà tôi đã nhặt hái được theo bước lần dò trên đường Đạo trên hai mươi năm trường, kể từ ngày Vía đức Phật A Di Đà, 17 tháng 11 năm 1946 Dương lịch.

Đời tôi, kể ra không biết mấy lần đổi hướng. Quan trọng nhất có lẽ là lần xảy ra cuối năm 1930, với quyết định bỏ cái học "gà bươi gốc chuối" là cái học kiếm ăn, để theo học cái thuật làm người theo gương Thánh hiền.

Trước tôi học Nho, và nhờ Nho mà tình cờ tôi mới được biết có một đạo Phật khác hơn cái đạo Phật tôi đã chán thấy ở gần khắp các chùa của thời ấy. Thế là tôi đã vào chùa ngang qua Văn Miếu.

Khai tâm cho tôi là tập Phật Học Dị Giải, quyển sách của Cổ Phong Trăn. Tôi đi từ kinh ngạc này sang kinh ngạc khác, để sau khi đọc đi đọc lại ba lần, chấm dứt với câu sám hối: "Phật giáo là thế này sao? Quả là mình đã đắc tội với Phật!".

Kể từ ấy, tôi lại mê kinh sách nhà Phật, gặp đâu những của quý ấy - quý thật vì lúc bấy giờ công cuộc phiên dịch, trước tác, ấn loát, phát hành đâu có mở mang như ngày nay - là tôi thâu thập, bất luận là viết bằng chữ Nho, chữ Việt, chữ Pháp. Tuy không liên tục, việc học đọc của tôi vẫn tiến với thời gian, thêm vào đó còn có sự dìu dắt tận tình của chú tôi, một nhà tham khảo Phật học có tiếng là khá uyên thâm. Hiểu được phần nào chữ "không" tôi cứ tưởng Ngộ Không là đủ.

Kịp đến khi, vì hoàn cảnh chiến tranh và cơ duyên bức bách tôi phải tùng quyền tự quy y nhân ngày Vía đức A Di Đà năm 1946 và bắt đầu tu tập thực tiễn, tôi mới lần hồi thấy cái lẽ tại sao Đường Tam Tạng, sau khi giải thoát Ngộ Không ra khỏi sức đè bẹp của Ngũ Hành sơn và thâu nhận làm đệ tử, đã đổi tên Ngộ Không ra Hành Giả. Tỉnh thấy lẽ "Không" của vạn vật là việc của lý trí. Tỉnh rồi phải quay đầu đổi hướng đặt chân lên đường thỉnh Kinh tây Phương mà đi, mà hành mới mong tới Linh Sơn bái yết Phật Tổ. Nhưng muốn hành mà còn mang nặng "năm uẩn" thì làm sao mà cất bước, vì vậy phải giải thoát ra khỏi sức nặng đè bẹp của Ngũ Hành sơn.

Nhưng tôi không phải là Tôn Ngộ Không, và tôi cũng không có cái may gặp thầy Tam Tạng, cho nên tôi không được cái diễm phúc nhứt thời giải thoát, mà phải tốn rất nhiều thời giờ và không ít công phu, đôi ba tháng mới rút được một tay, một vài năm mới nhoi đầu ra ngoài được ít tấc.

Cử động giải thoát đầu tiên của tôi là phát nguyện trường trai. Tôi đã nghĩ: không ăn chay không thể giữ giới bất sát được và giới thứ nhất không giữ được thì khó mà gìn bốn giới sau. Nhưng lạ quá, ai cũng bảo, nhứt là các bác sĩ, rằng ăn rau cải dễ tiêu, thế mà trọn tháng đầu tôi không nuốt vô bữa cơm chiều, bụng cứ sình lên và kêu như nồi cơm sôi, đến tám chín giờ tối chưa biết đói là gì. Lắm khi một bóng một hình, tôi thử nghe bên trong, thì nhận thấy sức khỏe yếu dần, xem gương thì thấy mặt mày xanh mét, còn soát lại quần áo thì cái nào cũng rộng như mượn của ai. Người nhà tôi trách: "Thấy chưa tôi đã nói mà, muốn Tu thì phải từ từ, trước ăn kỳ, sau ăn trường mới chịu nổi. Ai đời muốn đi xa mà không nương sức ngựa, đây rồi thành ma trước khi thành Đạo cho mà coi! Cãi lại thế nào khi bằng chứng quá hiển nhiên? Tôi đành chịu thua bằng cái làm thinh. Chịu thua nhưng không chịu đổi ý. Không đổi ý cho nên tiếp theo bị tấn công tơi bời, hết vợ tới con, hết con tới thân bằng quyến thuộc, một mình bị bao vây như Triệu Tử Long ở trận Đương Đương Trường Bản. Dùng võ không xong thì dùng văn, đối phương quay qua cám dỗ. Cạnh những món tương rau của mình, là những đĩa thịt cá ngon lành mà vợ nài con ép, mình chỉ cần chìa đũa qua là được cả nhà hoan nghênh. Nhưng tôi tự nhủ: "Chỉ có đổi thức ăn mà mình chẳng làm được thì còn mong gì làm được những việc khó khăn hơn!". Một tháng qua, tháng thứ hai, tình trạng bớt khó xử: ăn biết ngon, bộ máy tiêu hóa bớt lười, mặt mày bớt mét và hai chân cũng bớt yếu. Cuối tháng thứ ba, không còn gì khác lạ nữa, chẳng những thế mà còn cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, học, đọc sáng suốt. Tôi đã chiến thắng nội chướng ngoại ma rồi! Không tôi đã tự thắng lấy tôi, tôi đã kiềm hãm được tôi. Từ trước tôi đã từng đọc những danh từ Đại hùng, Đại lực nay tôi mới thật biết thế nào là Đại lực, Đại hùng. Về sau, tôi nhận ra đó là cây tích trượng "chấn khai địa ngục chi môn" của Bồ tát Địa Tạng, của Tâm tôi.

Đã một năm rồi, tôi có lệ sớm chiều hai thời công phu và mỗi buổi đều chấm dứt với bài "Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung" mà câu thứ nhì "Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu" luôn làm cho tôi thắc mắc. Chín phẩm hoa sen làm cha mẹ, thế nghĩa là gì? Đâu đây có chỗ giải: Mỗi khi mình phát tâm chuyên tu Tịnh độ, thì trong ao Thất bảo tại Cực lạc thế giới mọc lên một cây sen. Lúc mạng chung rồi, thần thức mình được Phật A Di Đà và chư Thánh chúng rước về Tây phương và từ trong hoa sen ghi sẵn tên mình, mình hóa sanh ra, chắp tay bái Phật. Bộ óc thâm nhiễm một ít khoa học không cho phép tôi chấp nhận lối giải ấy.

Bỗng nhiên, vào một đêm cuối năm 1947 ở Hà Nội, lúc tôi đang đứng chắp tay cúi đầu nhắm mắt đọc câu "Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu" trong tôi một biến cố xảy ra, nhanh lẹ hơn một nháy mắt, sáng rực hơn mặt trời... tôi thấy... và tôi hiểu... Thấy mà không cần mở mắt, hiểu mà không cần vận dụng trí lực. Tôi thấy nhơn loại như một đầm sen trong đó có những ngó còn là ngó, lại có những ngó khác đã thành cọng đang xoi đất, vẹt bùn, vượt nước mà lên. Nếu có những cọng còn hì hụp trong các lớp nước hôi, có những cọng khác đã lên tới mặt nước hoặc khỏi mặt nước, lại có cọng trổ búp, có búp đã hé miệng cười, có hoa đã nở thật nở, ngửa lòng hứng ánh thái dương và làn gió mát của buổi sớm trong sạch. Tôi đã hiểu: căn cơ chúng sanh không đồng đều là như vậy, nhưng nhứt định như sen kia, ngó nào rồi cũng thành cọng, cọng nào rồi cũng trổ hoa và hoa nào rồi cũng nở, tỏa ra mùi thơm vi diệu, dù rằng chỗ sen sống là bùn lầy nước đọng tanh hôi. Đi sâu hơn một chút, tôi hiểu thêm rằng con người được thanh tịnh là con người mới, hết là con người của đất phàm phu, của bùn thế tục. Vậy quả con người mới ấy là con đẻ của hoa sen, tiêu biểu cho sự thanh tịnh. Đến đây, lòng tôi tràn ngập một niềm hy vọng không bờ bến: số phận của mỗi chúng sanh, dầu trong hiện tại có hẩm hiu đến thế nào, vẫn có chỗ dung thân ở thế giới Cực Lạc là nơi dành sẵn cho mọi tâm hồn, bởi lẽ mọi tâm hồn, đến chỗ chung cuộc, đều trở nên trong sạch, cũng như số phận của mọi ngó là phải kết thúc bằng trạng thái cọng sen trổ hoa.

HOA SEN TUY CHỬA NẢY SANH

BẢN CĂN ĐÃ KẾT NGÓ SEN TRONG BÙN.

(Còn tiếp)

Trích tạp chí Từ Quang số 178 - 179 tháng 6+7/1967

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 46
    • Số lượt truy cập : 7049121