Thông tin

TỰ BẠCH

 

NGUYỄN HỮU KHA

 

Năm nay tôi 53 tuổi rồi; gẫm lại cái đời quá khứ của tôi, chẳng biết vì sao mà nó lại như một chuỗi đau khổ dài dặc như thế! Nghe mẹ tôi1 kể cho biết rằng khi mẹ tôi có mang tôi, sốt rét 6 tháng trời, người chỉ còn cái da bọc cái xương, bụng to vượt mặt mà vẫn phải cố dậy lăn cái cối đá thủng để đập lúa chiêm. Vì thế nên khi tôi ra đời đã là một đứa trẻ tiên thiên bất túc, mềm yếu như cái dải khoai. Được 7 ngày đã bị chứng cam ám mục, mủ ở trong mắt phòi ra, đắp lá mãi mới khỏi. Ngoài 7 ngày, cứ mờ mờ sáng mẹ tôi cho tôi bú một bữa no, lấy tã quấn chặt đặt nằm trên giường, trên bụng chèn một cái gối. Tôi nằm ngủ yên, thức dậy đói, khóc chán, mỏi mồm lại nằm yên; cho đến 11 giờ trưa mẹ tôi đi làm đồng về mới ôm con lên, chùi sạch cứt đái rồi cho bú. Buổi chiều cũng lại sống cảnh ấy từ 1 giờ đến 7-8 giờ tối, chỉ có đêm được nằm với mẹ suốt đêm.

Hoàn cảnh tôi lúc đó chị tôi lên 4, anh tôi lên 2, còn bé cả. Mẹ tôi đi làm thì đem gửi bà tôi coi hộ, cách đấy độ 3 sào ruộng. Bố tôi2 đi trọ học, nhà nghèo không đủ lương ăn, nhưng sức học khá, nên được một người ở làng Kim Lũ3, làm tri huyện, có một con trai tên là Cả Khoan học dốt, mới nuôi bố tôi làm bạn dạy cho con hắn; nhờ đó mà bố tôi học được. Cả nhà tôi lúc đó sống chỉ nhờ của bà tôi chia cho 6 sào ruộng, mẹ tôi thuê thêm mấy sào nữa để cấy. Trong số 6 sào có 3 sào vườn4, mẹ tôi trồng cau và rau; có một con bò thuê người cày vụ, phải trả công mất một số thóc. Khi tôi biết bò, mỗi khi mẹ tôi đi làm đồng cũng đem gửi bà tôi. Nhà gần ao; bà tôi già và lòa, sợ cháu xuống ao đem nhốt tôi trong một cối đá thủng. Tôi khóc chán lại cười, ỉa đái ra bốc ăn rồi lại giơ lên cười. Mỗi khi mẹ tôi kể đoạn này thì mẹ tôi tỏ vẻ thương con quá; mà tôi cảm thấy một nỗi khổ sâu xa, đồng thời lại nảy một tư tưởng oán hờn cha mẹ, đẻ con ra như thế chỉ là gây cái khổ cho con. Cho nên mỗi khi tôi khổ vì bệnh tật thì tôi lại càng thương thân lúc bé quá. Tôi tuy yếu nhưng sáng dạ, nghe ai nói gì cũng nhớ ngay, lên ba tuổi đã nhớ được cả câu văn của bố đọc.

Tôi lại là một người giầu tình cảm quá. Tôi còn nhớ năm tôi lên 5 tuổi, mẹ tôi sinh một em trai tên là Niêm được 7 tháng đã biết đi, khôi ngô và khỏe lạ. Một chiều hôm ấy, giặc Pháp mở cái trại nuôi ngựa5 ở gần nhà tôi, nó cắm ruộng của đồng nhà tôi vẫn cấy thâm canh. Mẹ tôi bế em tôi ra xem nó cắm ruộng thì em tôi cảm gió rồi sài uốn ván chết. Tôi thương em tôi, cho đến bây giờ tôi cũng nhớ như in cảnh tượng lúc đó. Tối hôm em tôi chết, bố tôi nằm võng cho tôi nằm bên, hát một câu rằng: “Làm người trước phải hiếu thân, cám ơn cha mẹ ân cần với con. Một ngày lỗi đạo thần hôn, Hổ6 mang khăn áo tự tôn làm người”. Mỗi khi nhớ đến, tôi càng thương cảm. Có đêm rét mướt, tôi nằm quây xung quanh bố, nghe bố tôi kể chuyện căm thù giặc Tây, có hát đùa một câu rằng: “Thằng bố cu Tây bắn súng đùng. Chim có, sáo, vạc chạy lung tung. Ai mà giết được thằng Tây ấy. Phong tước cho mình đến quận công”. Tôi nghe thấy nhớ luôn và tấm lòng căm thù giặc hình như nó cũng nẩy mầm từ lúc đó. Năm tôi lên 6 tuổi, bố tôi thi đỗ, bác tôi thì đỗ7. Theo lệ làng phải khao. Các anh em mừng hàng mấy trăm câu đối; suốt ngày tôi nghe chị tôi, anh tôi ngâm câu đối, bài thơ, tôi cũng ngâm theo, do đó tôi nhận được nhiều mặt chữ Nho, đến giờ tôi cũng còn nhớ được cả hình ảnh lúc đó. Rồi từ đó tôi cũng tập làm thơ, làm câu đối. Lại có ông bác hiếm hoi8 yêu tôi, tối tối gọi vào ngủ và ra câu đối ứng khẩu. Nhờ đó khiếu làm văn của tôi nở sớm, 7-8 tuổi đã làm văn tế cóc tế ruồi, mà thích những lối văn bi thảm lắm. Bố tôi đỗ rồi không ra làm quan với Pháp, chuyên hoạt động cách mạng, bắt đầu từ Đông Kinh Nghĩa Thục, chẳng mấy lúc ở nhà nên chúng tôi thất học từ bé. May nhờ bà tôi9 biết ít chữ Nho nên ngày ngày dạy cho mấy chữ; đó là cái vốn học của cả đời tôi.

Nhà nghèo quá, lúc đó mẹ tôi đã sinh đến 6 con. Nhiều con càng túng thiếu nhiều. Chị em tôi 7-8 tuổi đã phải tập làm rồi: chăn bò, cắt cỏ, gánh nước bằng lọ, thổi cơm, nấu cám lợn; chả làm được cũng phải làm, con đàn ai chiều? Mười tuổi đã phải tát nước, 12 tuổi đã tập cày bừa. Nhà có con bò chết dịch mất; mẹ tôi, chị tôi kéo cho tôi bừa, thật là nhọc nhằn quá. Năm tôi 14 tuổi, bố tôi bị giặc Pháp bắt, khép án 10 năm10, bị đày ra Côn Lôn. Bắt được 2 tháng thì mẹ tôi sinh em út tôi. Con ra đời không biết mặt bố; lúc bố về con lạ khóc òa lên. Mẹ tôi lúc này khổ quá, đẻ được 3 ngày đã phải đi làm, đi thăm bố tôi. Tôi cũng suốt ngày đứng rình ở nhà pha Hà Nội, hễ thấy giặc giải bố tôi đi ra tòa án binh xử thì chạy theo, bị lũ mật thám đánh đập rất khổ. Căm thù tủi nhục, thân hèn biết làm gì được. Đọc chuyện ba vị anh hùng ý Đại Lợi11, thấy ông Gia Phú Nhĩ12 nói với bạn làm mối vợ cho ông rằng: “Ý Đại Lợi là vợ, ý Đại Lợi là con, từ đó tôi đã nảy cái ý nghĩ muốn là cũng muốn học ông một điểm đó. Năm 1915, nhân đi chợ Hà Đông, trưa về nắng vào nghỉ ở dưới gốc cây bên đường, thấy phá bên làng Mọc có cái trại đẹp, mới lần vào xem thì ra là cái làng tên đại Việt gian Lê Hoan, làm tay sai cho giặc đánh ông Hoàng Hoa Thám13; được giặc phong làm khâm sai14. Tôi có đề một bài thơ bằng chữ Nho rằng:

Thanh thần điếu cửu nguyên,

Chủng chủng u tình huyên.

Thế thái cạnh phú quý,

Nhân tình xu ngân tiên.

Công cừu bái ngạch thượng,

Nghĩa vụ phóng tâm biên.

Sau đó, tôi không hề nghĩ đến cái đời riêng của tôi nữa; người ta cho tôi là tin đạo Phật mà không lập gia đình, có biết đâu uẩn khúc của tôi từ thuở còn thơ dại.

Lúc đó nhà tôi tuy nghèo nhưng cả nhà chịu vất vả để lo cho anh tôi đi học trường Pháp - Việt. Bố tôi e giặc Pháp ngờ anh tôi, nên cho anh tôi nhận bác tôi làm bố nuôi để đi học. Tờ mờ sáng, anh tôi ăn ba bát cơm, đi học trường15 cách xa nhà 4 cây số. Lúc lên tràng trung học16 cách xa nhà 8 cây số; đi từ 4 giờ sáng, 8 giờ tối mới về đến nhà, mỗi buổi trưa được 1 xu ăn quà. Còn giấy bút thì làm thuê bài cho các bạn nhà giầu học kém, 4 năm ròng rã như thế, đủ thấy cảnh khổ nhà tôi như thế nào! Vì sao mà khổ đến vậy? Trước tôi cũng lầm tin là số phận. Ngày nay được học chính sách mới biết rằng không có số phận nào cả, chỉ tại thực dân, đế quốc, địa chủ phong kiến mà thôi. Tôi còn nhớ như in: một hôm vào buổi chiều năm tôi lên 4, em An tôi lên 2, tôi thấy một mụ độ ngoài 30, béo, đen, mặc áo vải rồng, tới nhà tôi, cùng ngồi với mẹ tôi ở một cái chõng con. Tôi trông mặt mụ ấy rất hung ác, mỗi lúc nó lại ngồi xích gần đến mẹ tôi, trợn mắt, trợn mũi, chỉ trỏ nói những gì gì tôi không hiểu. Mẹ tôi thì mặt buồn thiu. Lúc đó bố tôi mới đi về, mệt nằm ngủ, sực dậy thấy tình cảnh đấy, bố tôi hình như hiểu ra và căm tức nộ nạt mấy câu. Con mụ béo ấy khoác tay mẹ tôi chạy thẳng ra cổng rồi tắt cánh đồng đi Hà Nội, mãi đến sáng hôm sau mẹ tôi mới về. Em tôi vắng mẹ, thèm sữa khóc thâu đêm. Tôi cũng nhớ mẹ, ngủ rồi hoảng dậy, chẳng hiểu là cái gì cả. Sau khi lớn lên, tôi hỏi mẹ mới biết con mụ ấy là con gì con già, họ với mẹ tôi; mẹ tôi vay tiền của nó đến hạn chưa giả nên nó lôi đi. Làng tôi17 có một mụ nữa, người làng Cự Đà lấy lẽ người làng tôi tên là Hai Sốp, nó chuyên cho vay lãi, hễ mà ai túng thiếu là tự nó đến, nó dỗ cho vay. Rồi lãi mẹ đẻ lãi con, lãi con thành lãi mẹ, nó cứ rút dần, chẳng ai quỵt nổi nó. Nó thấy nhà tôi hoạn nạn, nó cho mẹ tôi vay 15 đồng mà trả đến mấy chục năm vẫn chưa xong, cho đến lúc anh tôi và tôi kiếm được tiền, mẹ tôi cũng vẫn chưa hết nợ. Tôi hỏi mẹ tôi, mẹ bảo rằng còn phải trả lãi cháu lãi chắt nữa đã xong đâu. Ôi! Sự bóc lột của bọn địa chủ tàn ác biết nói làm sao cho xiết!

Sinh kế nhà tôi ngặt quá, mẹ tôi thấy tôi không được học, lại phải làm vất vả quá, muốn tìm cho tôi một lối sống khác. Nhân lúc đó có một người anh con cô tôi, tên là Tường lấy vợ, làm một người thông lại ở huyện An Dương, giới thiệu cho biết rằng ở Đồ Sơn dân cư trù phú, nhiều người xuống đây chỉ bán kẹo cũng giầu. Mẹ tôi tin lời, trù tính cho tôi đi. Nhà không một đồng, lấy đâu ra vốn mà buôn. Mẹ tôi phải nói khó với một người giầu trong làng, tên là Lý Diễn bảo lĩnh lên vay một phú hộ ở làng Đào tên là Lý Hai. Vay có 50 đồng bạc mà phải lễ 2 cân giò lụa, một cái văn tự 6 sào ruộng làm bảo chứng, mẹ cặp chỉ con ký, Lý trưởng áp triện18, người bảo lĩnh ký; chầu chực như ăn mày từ sáng đến chiều mới được cầm tiền về, nhục nhã quá! Vì một việc này tôi thề rằng đời tôi hễ ai thiếu thốn cái gì muốn nhờ tôi, chưa hé miệng tôi đã vâng, có thì giúp, không thì vay giúp, nếu không được thì lòng tôi đau khổ cũng như người không vay được. Tôi mà còn một bát gạo, ai đói hơn, tôi cũng nhường ngay thà tôi chịu nhịn, và chính tôi đối với sự nhịn hai ba bữa là thường lắm19. Năm mươi đồng bạc sắm đồ lề với thuốc, vì chính nhà tôi từ trước vẫn làm thuốc, tôi cũng biết võ vẽ nên mới quyết tâm để thêm vào. Sắm mất một nửa, còn một nửa buôn các thứ bánh khách và kẹo. Một đứa trẻ 16 - 17 tuổi đầu, từ trước chưa ra khỏi làng, ngày nay đi tha phương cầu thực, tôi thật là liều mà mẹ tôi vì con mà liều quá. Tôi xuống Đồ Sơn vào tháng Ba, bắt đầu mùa tôm cá, làm thuốc bán kẹo tháng đầu cũng dễ chịu. Đến tháng Tám, tiết thu hơi lạnh, hết mùa tôm, nhân dân 90% hết ăn; cảnh tiêu điều hiện ra, so với mùa tôm thật chả khác hai thái cực. Từ đó uống thuốc chịu, ăn kẹo chịu, nói nay mai trả, rút cục hết vốn chẳng thấy ai trả. Vì phong tục ở đây như thế mà tôi ngu dại không biết. Nhà nghèo có 6 sào ruộng cầm lấy tiền buôn, ngày nay hết vốn, thật là tôi giết cả nhà tôi, nếu sau không nhờ bà tôi có một món tiền ruộng riêng ở Trung Lập để trả nợ cho mẹ con Lý Hai. Tôi hết vốn đâm lang thang, lúc theo đi đánh cá, lúc theo đi vét tôm, đêm giăng đi mò cua bắt ốc ăn trừ bữa. Lúc gạ vào giúp việc thợ may, vì tôi có ý khéo tay bắt chước, chóng làm được các việc như đính cúc thùa khuy nên cũng có ngày có việc thì được một bữa ăn. Đói dễ trụy lạc; lúc đó tôi buồn hay gạ các con bạc đi ké một vài xu. Được thì mua rượu uống, lúc mới còn cay, sau thấy ngọt lừ, vì cảnh buồn thảm với rượu vẫn có duyên gần lắm. Có khi tôi theo nhân dân đi bán cá khô, bán mắm tôm, kéo thuyền, đẩy xe bò; gặp cái gì gạ được dăm ba xu thì làm, đời sống nhầy nhụa quá. Có lần bị đắm tầu, hai ngày không ăn, tôi phải cắm mặt đi ăn xin. Đi sà lúp từ Hải Phòng sang Kiến An, vé có 4 xu, tôi cũng không có, cứ đi liều. Lúc người soát vé hỏi vé, tôi không có tiền, còn một cái khăn rách đội trên đầu trật xuống gạ bán cho hai bà cụ nông dân cùng đi. Hai bà cụ cho tôi 4 xu và nói: “Đây, tôi đãi bác, chứ tôi lấy khăn làm gì”. Từ đó tôi yêu quý các cụ nông dân vô cùng; và suốt đời đi xe hỏa, tầu thủy không bao giờ tôi ngồi với người sang trọng, mà chỉ tìm đến ngồi gần các cụ, tôi thấy có cái cảnh êm đềm như gần mẹ tôi vậy. Có tiền có đồ gửi các cụ, chạy loăng quăng hết mọi nơi, chả lo gì mất cắp.

Năm tôi 19 tuổi, cha tôi hết hạn ở Côn Lôn về. Tôi lần mò về, bố con gặp nhau, nỗi mừng khôn xiết mà nhìn cảnh nhà tiêu điều, nghĩ đến cái tội phá hoại của tôi thì tôi lại càng đau khổ quá. Ruộng không đủ làm, cha con tôi thuê một gian nhà ở Ngã Tư Sở thuộc tỉnh Hà Đông làm thuốc Bắc, thuốc Nam. Cha tôi có tiếng là ông Cử, lại có tuổi; tôi cũng là người vừa thất bại đau đớn quyết chí phục thù cải tạo lại con người để chuộc tội lỗi, hết sức cần kiệm. Hàng thuốc khá đắt; nhưng tình thương người bởi thương thân kia nó đã sâu lắm, nên tôi chỉ giấu diếm bố tôi giúp đỡ người nghèo. Ba năm trời chỉ đủ ăn chẳng thừa được đồng nào.

Tôi là người ốm yếu, đa cảm, lại bị tỏa chiết sớm; thêm vào đó là sự học hành nhờ bà nhiều, nên lòng lành được vun bón nhiều. Khi bà tôi mất, lúc đó tôi 15 tuổi, thương quá, thấy bố mẹ tôi mời sư về tụng kinh. Sư bảo tôi: “Nếu chú tụng được thì tụng cho bà được nhiều công đức”. Vì lòng thương và biết ơn bà, tôi leo lên ghế tụng thật. Sư bảo tôi tụng kinh Lương Hoàng đến đoạn Phật Thích Ca bỏ ngôi Thái tử đi tu khổ hạnh, lúc đắc đạo vào hàng ngũ khổ cùng, giác ngộ cho người cùng khổ nhất để nâng dắt lên trên giai cấp phong kiến... Phật lại nói: “Nhân dân là cha mẹ bao đời kiếp của ta, ta phải hiếu kính cúng dàng; cho đến muôn vật cũng có tính Phật cả, bình đẳng với ta cả; ta phải làm thế nào cho thảy đều bình đẳng cả tình cũng như trí”. Vì cái động cơ đó mà tôi cứ mỗi tuổi20 đi gần với đạo Phật. Nhưng tôi đi sâu vào trong nhà chùa, tôi thấy sự tổ chức không đúng một tý nào, trái lại toàn rập theo khuôn khổ phong kiến, chia giai cấp rất khắc nghiệt, hưởng thụ xa xỉ, bỏ mất hẳn cái tinh thần trọng lao động, không theo đúng quy chế: “Một ngày không làm, một ngày nhịn ăn” của Phật Tổ. Lại còn dùng thuật mê tín vẽ ra đàn tràng cúng kính, đục khoét đến xương tủy nhân dân để mà sống một đời nhàn rỗi no đủ. Vì thế tôi nhất định không theo chế độ đó, cho đến ngày nay tôi cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi. Hơn nữa, nếu có dịp, tôi sẽ đánh đổ cái chế độ mục nát ấy; nên sau đó tôi có theo đuổi vào công việc chấn hưng Phật giáo.

Năm 1929-1930, chị lớn tôi lấy chồng nhà giàu, nhưng bị nó đàn áp khổ, phải ra ở riêng, sinh kế rất thiếu thốn. Tôi biết ơn chị tôi đã tận tụy giúp mẹ tôi nên anh em tôi mới sống được, nên tôi quyết nghỉ bớt việc làm thuốc, lên ở Hà Nội trông nom giúp chị tôi cho thuê xe đòn đám ma. Hai năm tận tụy, khi chị tôi đã có cơ sống được, tôi mới thôi. Lúc đó có một em con chú họ là Hiền, mồ côi cha mẹ, ở với dì ghẻ, dì ghẻ ác nghiệt đuổi vợ em Hiền về với bố mẹ, còn em Hiền thì ngày ăn hai bữa lêu lổng chơi bời. Tôi lại đứng lên thu xếp với dì ghẻ cho vợ em Hiền về. Tôi vay được 500 bạc mua cái máy in đạp chân của nhà in Phù Văn về. Anh em thuê nhà sắm đồ và rủ thêm vài em sắp chữ. Tôi tập làm máy in rồi ký giấy với hãng buôn giấy Cáp Pha, mua chịu giấy về kẻ làm vở bán và mở thêm một cửa hàng sách nhỏ ở nhà 36 phố Sinh Từ21, vừa bán sách vừa bán hàng quà cho học sinh; tháng tháng chạy tiền thuê nhà méo mặt, nhất là lo nộp thuế môn bài bằng đi sứ. Tất cả đến 7 - 8 anh em lao động cùng làm cùng sống lay lắt qua ngày.

Đến cuối năm 1935, Hội Phật giáo thành lập có rủ tôi22. Tôi có hỏi bố tôi, bố tôi bảo cho biết đó là cái Hội thằng Tây nó lợi dụng. Tôi cũng biết cả Ban Trị sự, đa số là tay sai đắc lực như Nguyễn Năng Quốc23, Trần Trọng Kim v.v... Nhưng tôi cũng không sợ, vì dù sao tôi cũng có thể lợi dụng thực hành cái chí của tôi là đánh đổ chế độ hiện hành thối nát của nhà chùa. Tôi vào giúp việc Hội; được ít lâu, tôi để hiệu sách cho em Hiền. Tôi cho Hội mượn cả máy in và Hội sắm một cái máy nhỏ nữa, tổ chức in sách báo nhà Phật. Tôi làm quản lý nhà in24, viết kinh viết báo nhiều nhất; mục đích chính vẫn là nhằm về chỗ bài trừ mê tín, đề cao tinh thần lao động. Sách báo không chạy mấy, nhất là báo; tờ Đuốc Tuệ trước ra 5000 số rồi tụt xuống 1000 không hết; người mua không chịu trả tiền. Lỗ vốn nhiều mà kinh tế thì Hội khoán trắng cho tôi, nên đời sống của anh em nhà in chúng tôi cũng gieo neo lắm. Ngoài kinh sách nhà Phật, tôi in rất nhiều các sách như Đạo đức phổ thông, Lịch sử phổ thông, Vệ sinh phổ thông, Cách trí Phổ thông v.v... để tặng các bạn nghèo học lớp Truyền bá Quốc ngữ. Tôi cũng cố gắng về việc học.Ngoài lớp các Tăng ni học, tôi còn mở rộng dạy các em ngoài, không lấy tiền; tôi đã bị tên cẩm25 Hàng Trống bắt giữ ở bót nửa ngày. Tôi đã đề nghị cho Ban Quản trị nhận lấy trách nhiệm mở rộng lớp học quốc ngữ, cử hết Tăng ni làm giảng viên, lấy chùa làm trường học, cam đoan một năm tín đồ Phật giáo hết nạn mù chữ; nhưng Ban Quản Trị họ tìm đường thoái thác không dám làm, tôi lấy làm ức lắm.

Năm 1936, tôi vào giúp việc Hội Tế Sinh do cụ Cả Mọc26 sáng lập bằng tinh thần tự lập, không nhờ Pháp trợ cấp. Ban Trị sự toàn người sốt sắng như các ông Hoàng Đạo Thúy, Trần Duy Hưng27 v.v.. nên công việc Hội lúc mới cũng khá phát triển. Riêng tôi với cụ Cả Mọc thì nghĩa là đồng chí mà tình như mẹ con, vì tôi với cụ cùng thờ một lý tưởng không cần lo cho mình mà chỉ cần lo cho người, biết sống dưới quyền của giặc là nhục, nên làm việc gì cũng không phô trương, chỉ cần có lợi thực tế cho giống nòi, không cần giặc biết. Thằng Bảo Đại thưởng Kim tiền28, Cụ tôi gửi trả lại. Tên thống sứ Tô Năng29 bảo khai tên Ban Trị sự để cho mề đay30, Cụ tôi chỉ vào cái hòm công quỹ nói: Ông cứ bỏ đầy cái hòm này còn hơn. Nguyễn Năng Quốc, Hội trưởng Hội Phật giáo hai lần đem xe ô tô đến mời tôi và bảo tôi khai lý lịch để sớ31 vào thằng Bảo Đại cho tôi phẩm hàm, tôi bảo: “Tôi chỉ thích làm người bạch đinh thôi. Lý phó làng tôi khuyên tôi bỏ ra 6 đồng bạc để mua nhiêu cho khỏi đi tuần, tôi cũng đồng ý cứ gọi đi tuần thì đi chứ không đi mua nhiêu. Nếu cứ ép xin phẩm hàm, tôi sẽ vào rừng”. Cũng chính vì chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn ngon mặc đẹp, chỉ kéo đôi guốc cũng đẽo lấy mà dùng, không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có. Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngoài sự góp sức vào cơ quan cứu tế, tôi cùng cụ Cả Mọc còn vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi tôi cùng ông Thúy, ông Hưng hàng ngày đem thuốc, đem tiền, đem áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến sống thực. Gần khắp hai huyện Quế Dương, Lang Tài, không còn sót mấy nhà mà chúng tôi không tới hàng bốn năm lượt, ròng rã ba tháng như thế cho đến lúc lúa chín. Chúng tôi nhận thấy số các em nghèo ở bãi Phúc Xá32 rất nhiều, định mở thêm một nơi trông nom các em nữa, đã nhiều lần đưa giấy cho tên Đốc lý Hà Nội là Viếc Gi Ty, nhưng nó có ưa gì chúng tôi mà nó cho. Chúng tôi đành phải tìm ra nơi khác. Vì thế mới mưu tậu cái ấp Phú Ninh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc của con một nhà phong kiến là Nghị Hoành. Lúc này tài chính của Hội ngày một eo hẹp, vì số chi tăng mà số thu chỉ trông có 500 hội viên, mỗi tháng góp 5 hào với 3 hào. Chúng tôi phải cầm cái họ và vay tạm các nhà buôn, tậu cái ấp hơn 100 mẫu với giá tiền hơn 1000 đồng (hơn một nghìn). Những tưởng tậu rộng để thêm nguồn kinh tế cho Hội, nào ngờ ruộng thì xấu tá điền bị địa chủ bóc lột nghèo quá, chúng tôi lại phải vận động ở Hội chính giúp thêm. Ba năm đầu chúng tôi hết sức hô hào, làm được một cái trường học, 5 gian nhà dưỡng lão, 3 gian các em ở và một ngôi chùa nhỏ33. Dân ấp cũng khá dần, đã làm được cái chuồng trâu công cộng bằng gạch, dài 10 gian. Công việc giúp đỡ già cả tàn tật cũng khá dần, tre ấp đã tốt, dân ấp đã đông thì phát xít Nhật tới cấm ấp.

Về bên Phật giáo, thì từ năm 1943 đến 1945, tôi cùng các đồng chí xây được một cái trường học ở làng Mọc cách thủ đô 5 cây số, trù tính làm xong chứa được 500 học trò nghèo. Năm 1944, làm xong 1/4, tôi mở 4 lớp tiểu học dạy theo tiểu học không kèm theo Phật giáo tý nào34. Ai trả tiền cũng lấy, mà chú trọng là giúp các em nghèo. Cách trường học độ 500 mét, tôi lại lập một cái am đặt là am Tế Độ35, để các hội viên ốm yếu nghèo ngặt khi ốm có chỗ dưỡng bệnh. Đằng sau mở một khu nghĩa trang để tiện người có giúp không người nghèo.

Năm 1944, nạn đói bắt đầu chớm ra, tôi cùng cụ Mọc đã lo mua khoai khô, sắn khô để dành và đã ăn hạn chế. Năm 1945, nạn đói khủng khiếp. Tôi cùng cụ tôi thật ra là chạy bợp đầu. Người đói đầy đường, ai giúp được hết. Chúng tôi không dám mở to, cứ chiều nắm từ 3 - 400 nắm cơm, nhờ các anh em Hướng đạo đeo đi các ngả đường, dúi vào bọc cho từng người. Tối thì đốt nhiều đống củi ở Hội quán cho đồng bào sưởi. Sau ngày Nhật đảo chính, nó lấy gạo của Pháp nấu cháo cho đồng bào đói, nó nhờ chúng tôi đi làm giúp. Trường học tôi trông nom, nó lấy làm nơi phát cháo. Nó viết mấy chữ lớn: “Bát cháo của người Nhật”. Nó cho một cách rất khinh bỉ; cho một bữa lại bỏ bẵng hai ba ngày. Đồng bào kéo đến đông, kêu gào thảm thiết. Tôi vừa tức vừa thương, quyết tâm tự mình hô hào các nhà từ thiện góp tiền góp gạo; tôi tự nấu cháo mời đồng bào vào ăn. Quân Nhật tưởng tôi ăn cắp gạo của nó, cho người xuống điều tra hăm dọa tôi. Tôi không sợ cứ làm mãi, tới 16 tháng 6 năm 1945 là 93 ngày, số người ăn một bữa 2 bát cháo là 38.600 bữa, gạo hết 30 tạ. Thằng Nhật xuống, thấy tôi làm được, nó lườm một cách ghen ghét rồi bỏ đi. Tiếp theo nạn đói, tới luôn nạn sốt định kỳ. Trường học, am Tế Độ đều đầy người ốm. Tính trung bình mỗi ngày tôi phải chôn 15 em chết, ít lâu sau chật cả 2 sào đất, hôi thối sặc sụa. Rồi quân của thằng Tưởng Giới Thạch kéo sang chết, nó cũng chôn bừa vào nghĩa trang của Hội tôi. Hàng ngày tôi sống chung với người ốm và người chết, càng khổ bao nhiêu càng căm thù tụi thực dân bấy nhiêu. Lúc đó chưa học chính sách, chưa biết thù địa chủ phong kiến. Đời tôi lao đao và cảm súc sầu thảm nhất là ở lúc này.

Tính đã đa cảm, lại sống trong cảnh sầu thảm nhiều, nên tôi hết bệnh nọ đến bệnh kia. Năm 25 tuổi, tôi mắc bệnh khạc huyết thành lao sái 8 năm mới khỏi. Năm 40 tuổi, lại mắc bệnh thần kinh suy nhược, đầu lúc nào cũng réo như sáo diều, đêm khó ngủ, tai điếc dần. Bác sĩ Trần Duy Hưng và bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết36 hết sức chữa cho cũng không khỏi. Cho đến ngày nay bệnh càng nặng, năm nay lại thêm bệnh hà sống mũi; với cái chết thật là dễ dàng, nếu không gắng tập thể dục và điều độ cẩn thận.

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, phát xít Nhật đầu hàng, tôi lại cùng Cụ Mọc lên sửa lại ấp Phú Ninh cùng anh Hồ Trọng Lý lúc bấy giờ làm quản lý cho Hội Tế Sinh. Còn ở Hội Phật giáo, tôi lại xin khai giảng trường học, số lưu học sinh37 được trên 10 anh, học trò ngoài trên 30 em. Tôi lại xin Chính phủ Kháng chiến tạm giao cho tôi khai thác cái bãi cỏ trước thực dân Pháp chiếm của làng Phương Liệt để nuôi ngựa, gần 8 mẫu, xung quanh có ngòi nước. Tôi cùng hơn 10 em trên 15 tuổi thoát chết đói làm mấy gian nhà, tậu một con trâu và sắm cày bừa, cùng nhau giẫy cỏ, cầy vỡ, đắp bờ làm ruộng trồng khoai, gieo mạ để cấy chiêm. Công việc mới hơi gọn mắt thì thực dân Pháp xâm lăng, tôi cùng các em đánh trâu, vác cày bừa di tản. Chính con trâu tôi làm bấy giờ là đã cùng tôi tản cư trên 8 năm nay.

8 giờ tối tháng 11 ngày 26 âm lịch năm 1946, tiếng súng nổ ở Thủ đô; tôi thu xếp các em chạy tản cư vào làng Đan Thầm38, Hà Đông. Lúc đó, các em do Hội Phật giáo trông nom có tới 90 em, phần nhiều là 5 - 6 tuổi, lại vì đói ăn mắc các bệnh lỵ và nề rất nhiều; nhiều em phải gánh. Trông nom vào đó có 6 sư ni và anh Nguyễn Quý Tán39 giúp việc dạy các em học. Còn tôi ở lại đến gần Tết âm lịch mới đi, vì lúc đó có anh Đường Thể Châu giúp trách nhiệm40 tự vệ kháng chiến khu Sinh Từ về bảo tôi in giúp các truyền đơn và bản tin chiến đấu; và nhà in của Phật giáo lúc đó cũng dọn về am Tế Độ. Đến phút cuối cùng thì chúng tôi đập hết máy, đổ hết chữ xuống ao rồi mới đi; nhà cửa cũng đốt hết. Ngoài số em Phật giáo, lại có 21 em do Hội Hợp Thiện trông nom ở Hàng Bột, lúc tác chiến Hội bỏ các em bơ vơ qua chỗ tôi ở; tôi lại đưa các em về Đan Thầm. Tất cả người lớn trẻ con trên 130 người; lương thực chỉ chạy được trên 10 tạ thóc, và trước lúc tác chiến tôi bán cái máy in của tôi mua riêng được một vạn rưỡi đồng đem đi để làm vốn sống. Ở Đan Thầm, tôi theo chính sách đã xin làng ấy 2 mẫu ruộng để cấy chiêm; lúa đã có đòng thì lại phải bỏ đi. Số các em đông quá lại ốm yếu, nên đã phải ăn cháo. Tôi chia 20 em trên 10 tuổi về Mai Xá, Hà Nam41; 21 em Hợp Thiện được Hội Hợp Thiện tìm đến chuyển đi. Còn 70 em, tôi chuyển về huyện Phú Xuyên ở làng Trung Lập. Từ đấy chúng tôi tham gia Bình dân học vụ ở làng đó. Được vài tháng, thấy tình thế cấp bách lắm, tôi mới thảo luận với em Nghiêm tôi và anh Tán, đưa một số em lên phát rừng mở trại ở trong rừng an toàn Cù Vân42. Còn một số em nhỏ tôi mua một cái thuyền gỗ đưa các em từ Trung Lập lên Sơn Tây. Suốt ngày tôi cùng em Thành43 mặc cái quần cộc, cởi trần, dìm mình dưới sông kéo thuyền đi. Con sông44 có trên 30 cái thác, kéo rất vất vả. Đi 6 ngày mới tới Sơn Tây; toàn thân tôi lột hết một làn da mỏng, y như rắn lột, nhọc nhằn không sao tả xiết. Tôi tản cư vào làng Yên Mỹ45, trú ở nhà tên Tổng Khương, một địa chủ cường hào nhất làng. Chật chội quá, tôi làm mấy gian lều lên đồi cho các em ở rồi cuốc đồi trồng sắn, cấy rẽ của tên Tổng Khuông 2 mẫu. Rẽ chia đôi mà nó còn mắng là lũ ăn mày, tôi tức định không gặt; mẹ tôi khuyên mãi, tôi mới nuốt giận gặt vậy. Ngoài số các em, còn có mẹ tôi già 72 tuổi và 2 chị dâu, một em trai, một em dâu và mươi cháu nhỏ. Các em ốm lại đi xa, bệnh ngày càng nặng; riêng ở Sơn Tây tôi đã phải chôn một chị dâu, một em dâu và 7 em bé dưới 10 tuổi. Năm 1947, tôi bắt liên lạc sang ấp Phú Ninh. Cụ Mọc tôi ốm nặng, công việc Hội tạm giao cho tôi. nhưng tôi chưa nhận việc thì anh Hồ Trọng Lý tản cư tới; thế là Cụ Mọc46 chuyển sang cho anh Hồ Trọng Lý vì anh vẫn trông nom việc ấp từ trước. Còn tôi lại về Sơn Tây. Qua 2 tháng, tôi lên Cù Vân thăm các em, thấy các em ngã nước* nặng cả, tôi lại xin phép chuyển cả về ấp Phú Ninh, làm lều ở riêng một khu ruộng, cách Hội Tế Sinh 500 thước. Các em yên chỗ, tôi về Sơn Tây để thu xếp sang cả một nơi. Chưa kịp dọn thì giặc tấn công lên Sơn Tây, phải chạy một phen vào rừng ẩn nấp. Cuối năm dọn sang Phú Ninh, tôi cùng các em sang trước, mẹ tôi và em tôi sang sau. Hôm mẹ tôi sang, khi đi ra bến Sơn Tây thì bị giặc quây, bắt em trai tôi (tức bố cháu Miễn) và một em gái47 tên là An, còn mẹ tôi già, nó không bắt48. Được hơn một tháng, em trai tôi trốn thoát về ở với tôi, còn em gái thì chết mất tích. Năm 1948, anh Hồ Trọng Lý biển thủ thóc gạo của các em, lại kéo bè phá Hội, nên lúc đó ông Vũ Ngọc Linh Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh Phúc Yên phải về giải quyết, bầu lại Ban Trị sự; tôi chỉ là một chân cố vấn. Ít lâu sau, chúng tôi theo lời ông Linh bảo phải thảo lại điều lệ xin phép Liên khu I. Trong điều lệ mới, có thêm một phần chính là trông nom con các chiến sĩ tử thương, và chỉ được gửi các em vào các công xưởng lớn, cho các em sau này thành nghề tốt, chứ không được cho các cá nhân nuôi làm khổ các em. Chính vì điều này mà tôi phải chịu rất nhiều oán thù, vì ai thiếu người cũng muốn chiếm một em bé về làm đứa ở49.

Ngày 5 tháng 12 năm 1948, chúng tôi được phép thành lập Hội Tế Sinh tỉnh Phúc Yên (Giấy phép số 661/GT). Đầu năm 1949, chúng tôi lại được phép mở một trường tiểu học cho các em trong Hội và các em ngoài Hội học. Kỳ thi bổ túc, trường Hội tôi được giải thưởng lá cờ danh dự thứ hai.

Ngoài việc Tế sinh, tôi lại được theo các Tăng ni vào Hội Phật giáo Cứu quốc huyện Kim Anh. Ban chấp hành cùng tôi nghiên cứu mở một lớp huấn luyện Tăng ni50. Tài liệu gồm ba phần chính là: 1. Giáo lý; 2. Lịch sử; 3. Kháng chiến; được huyện bộ Việt Minh Kim Anh đồng ý, số người dự trên 40. Huấn luyện 7 ngày, chúng tôi thực hiện giảm ăn; hết khóa học ủng hộ Quỹ Kháng chiến được 500 đồng. Sau đó lại xin mở lớp huấn luyện Bình dân học vụ 7 ngày để các Tăng ni học rồi chia nhau đi giúp các xóm trong xã Phú Cường, góp được một phần vào việc thanh toán nạn mù chữ ở các thôn Ninh Bắc, Cầu Đen, Hưng Gia, Thái Phù.

Ở đây, riêng tôi làm được gần 4 mẫu ruộng, trồng hàng mẫu khoai, nên sự sống cũng chỉ kham khổ thôi, không đói lắm mà cũng không ai chết cả. Lúa cấy đã giỗ quạn, có tin đồn giặc tấn công, rồi chúng đánh lên đến Phù Lỗ, cách Hội tôi 5 cây số. Hội tôi tản cư lên Thanh Trí cách đó 4 cây số. Toàn Ban Trị sự họp bàn việc đưa các em tản cư. Không ai chịu gánh cái khó khăn ấy, tôi phải xin gánh và quyết định hãy tản sang Vĩnh Yên. Kẻ gánh người đèo được dăm nồi gạo, dăm nồi đỗ sang chùa Yên Lạc và chùa Lầm. Tôi vừa thu xếp cho các em yên ổn rồi trở về Phúc Yên chuyển nốt thì giặc nhảy dù ngay Hương Canh gần Yên Lạc. Thế là đứt liên lạc. Tôi cùng 3 - 4 anh em đánh được con trâu, vác cầy cuốc lên Phi Đơn, huyện Đồng Hỷ. Thu xếp xong, tôi cùng một em vượt đèo Nhe sang Yên Lạc; còn cách 5 cây số tới nơi thì giặc càn tới, lại chạy ngoài đồng suốt đêm. Về Phi Đơn nghỉ một hôm lại vượt qua Tam Đảo. Trời mưa bão, vừa đi vừa lánh giặc càn phá, 3 ngày mới tới. Trong lúc đó thì các em ở Yên Lạc, trong 15 ngày bị giặc càn hai lần; mất hết, mẹ tôi bị gãy xương đùi. Tôi cùng các em thu xếp sang Thái Nguyên. Tôi và em Nghiêm tôi cùng cáng mẹ tôi. Các sư và các em đi trước. Đi được 5 - 6 cây số thì giặc càn tới, chúng tôi cứ đồng lầy chạy tắt, đằng sau giặc bắn đuổi theo, chạy không còn hơi mà thở nữa.

Đi suốt ngày tới chân núi Tam Đảo, lúc đó còn tất cả 38 em, em bé nhất 5 tuổi phải cõng và gánh. Cả đoàn người dậy sớm nấu nồi cháo lớn, mỗi người ăn 3 bát và cùng hô khẩu hiệu: “Ba bát cháo, đáo Tam Đảo51”. Suốt ngày leo trèo, khổ nhất là cáng người què và cõng em bé. Qua cái dốc Tam Đảo, ai có qua mới biết là hiểm trở ghê người, nhiều chỗ phải bò hay ngồi xuống bíu rễ cây mới xuống được. Đi đến tối mới tới chân núi bên này Vĩnh Yên52, vô sự cả. Về Phi Đơn mấy hôm, chỗ ở chật quá mới tìm vào Lý Nhân cách đó 3 cây số. Tiền hết, gạo hết, phải bán nồi, bán sanh53, lên tận Cù Vân mua sắn về nấu cháo. Hôm nào tôi cũng phải dậy từ gà gáy để giã sắn nấu cháo. Đói quá, khổ quá, hết sắn lại cháo lợn. Cả lớn bé gần 50 người, ngày ăn có 4 bát gạo nấu với một rổ sề lá khoai lang già, y như đồ lợn, nên các em mới đặt cho cái tên là cháo lợn. Lúc đó gạo lên cao quá, cảnh đói lan đến cả nhân dân; bộ đội cũng ăn cháo. Một hôm, có một tiểu đội Vệ quốc đến đi suốt xóm không đong được gạo, chúng tôi phải nhường cho 4 ca; nấu cháo chưa nhừ bộ đội đã húp vội rồi đi. Chúng tôi cùng các em thấy cảnh thực ấy cảm động vô cùng và tự nhiên thấy như chết gần hết những nỗi oán đói. Chúng tôi bàn nhau chỉ còn cách vỡ đồi trồng rau và làm gạo sáo54 là sống ngay, nhưng lấy đâu ra tiền. Tôi liền viết thư lên Bộ Nội vụ và Liên khu I55. Chưa đầy nửa tháng đã có giấy gọi đi lấy tiền. Ủy ban khu giúp cho một vạn đồng. Sung sướng quá, tôi cùng các em reo lên. Tiếp sau lại cho mua vài chục thước vải và 300 ký ninh vàng56, bán bớt đi làm vốn, cả nhà ra sức làm gạo sáo, kiếm được đủ gạo nấu cháo và sắn ăn.

ở đây chúng tôi tuy đói nhưng đối với công cuộc kháng chiến vẫn cố gắng. Công lương57 được nhân dân miễn, nhưng chúng tôi chịu đói lấy thóc đóng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bộ Giáo dục mở vườn trẻ, tôi cử 5 sư Ni dự lớp mẫu giáo 15 ngày; lúc về cố gắng cùng nhân dân sở tại mở được một vườn trẻ nhỏ có độ 15 em. Theo phương pháp mới, chúng tôi hết sức săn sóc58, các em tiến bộ mau lắm. Sau vì máy bay khủng bố dữ và nhân dân thấy chúng tôi nhịn đói làm việc nên mới xin tạm đình. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy chúng tôi liều quá. Các em trong nhà săn sóc chưa xuể, lại còn săn sóc các em ngoài.

Năm 1950, tôi nhận rõ công cuộc trường kỳ kháng chiến ai cũng phải gánh một việc; các sư Ni trông nom các em và vườn trẻ cũng tạm được, còn 3 sư Tăng theo tôi tản cư, như anh Quang tôi trông nom cho từ năm 11 tuổi, anh Tuấn, anh Dưỡng đều ở với tôi. Tuy là sư nhưng có đầu óc sáng suốt, nghe tôi hướng dẫn đều hăng hái đi đầu quân. Anh Quang, anh Tuấn vào Cục Thông tin liên lạc59, còn anh Dưỡng vào chuyên môn điện thoại. Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch, ơn Đảng giáo dục, anh Quang đã tiến tới chiến sĩ thi đua đại đoàn, anh Dưỡng chiến sĩ thi đua tiểu đoàn, anh Tuấn cá nhân xuất sắc.

Hồi tháng 6 năm 1950, chị Chi, chị Lan60 đi chợ bán gạo, gặp người quen ở Thủ đô ra, cho biết tin là bố chị Chi chết. Hai chị trốn luôn về Thủ đô, độ nửa tháng lại ra. Vừa tới nơi, tôi họp ngày các sư và các em lại kiểm thảo và đuổi hai chị đi. Được 7 ngày, chị Lan đi hẳn, còn chị Chi trở về thú thực là có về Thủ đô, có được bà con cho ít vàng phải bỏ vào lọ tương mới đem ra được, nay biết tội xin cho ở lại, thề không dám về nữa. Tôi bảo các em rằng: “Chúng ta phải tự lực cánh sinh; người tự do không ăn xin người mất tự do. Vàng của ai cho phải trả lại, dứt khoát tôi không dùng61”. Việc này có nhiều người biết đều cười tôi là gàn. Tôi vui lòng chịu gàn, miễn là tôi không lụy ai.

Chúng tôi tới Lý Nhân chưa đầy một tháng thì mẹ tôi chết*, vì người già đau đớn, thuốc men không có, ngày vài bát cháo, sống làm sao được. Tôi trông thấy mẹ chết thỉu dần mà lòng đau đớn vô cùng. Chao ôi! thế là bố chết vì giặc, mẹ chết vì giặc, anh chết vì giặc (anh Quế làm cán bộ trước bạ ở Hiệp Hòa, năm 1948 bị giặc tấn công bắt, giặc dụ hàng, anh tôi không hàng, giặc mang về Kinh Môn bắn chết, hiện có một con nhỏ là em Khuê ở với tôi)62 em gái chết vì giặc, chị dâu, em dâu63 chết vì giặc. Cái thù không đội trời chung, mà tôi ốm yếu không ra tiền tuyến giết giặc để báo thù, tủi nhục đau khổ là dường nào! Tình cảnh thiếu thốn đã khổ, lại thêm cái sự đối đãi ở chung quanh hà khắc lại càng thêm thương. Các em thiếu thốn đi mót củ khoai, hái ngọn rau, bị chửi mắng nhục, bị đánh rất đau, luôn luôn phải xin lỗi, nhìn nhau bằng con mắt cáu ghét. Còn nhớ Rằm tháng 8 âm lịch năm ấy, ông Nhân Phó chủ tịch huyện Đồng Hỷ có khuyến khích các xã xung quanh đến thăm các em. Nhưng chỉ có một xã Đồng Tiến đến cho hơn 1.400 đồng lại toàn giấy rách không tiêu được; sau chúng tôi phải thêm tiền vào cho đủ 5000 đồng để mua công phiếu kháng chiến. Nói đúng ra thì nhân dân cũng thiếu thốn cả, còn lấy đâu mà giúp được. Ủy ban tỉnh có ủy một ủy viên về thăm 2-3 lần, thấy tình cảnh thiếu thốn có thông tri cho huyện Đồng Hỷ đến đón các em để tìm chỗ gửi. Nhưng các em khóc không chịu đi. Ủy ban huyện lại bảo tôi đưa các em sang Đồng Bẩm nhờ mụ Cát Hành Long64 giúp cho vài con bò và mấy mẫu ruộng. Còn đang thu xếp thì giặc tấn công lên. Thật là may nếu sang Đồng Bẩm thì khó tránh khỏi nanh vuốt của mụ địa chủ ấy được. Ở đây, anh Quang liều về Phúc Yên dắt được mấy con trâu, bò gửi ở Dóm lên, lạc mất một con, còn một con bán được trên 5000 đồng, được thêm ít vốn làm gạo sáo.

Tháng 9 năm ấy, giặc tấn công lên. Chúng tôi ở trong vòng vây 12 ngày, suốt ngày đêm chui trong các bụi rậm ngoài đồi núi, nắng dầm mưa dãi, cũng gian khổ lắm. Trước sau chết mất 4 em. Lý Nhân là nơi hẻo lánh; đồng bào tản cư đến đông, mà phần nhiều là đồng bào vùng xuôi tản cư lên; nên trong lúc lánh nạn, các sư Ni và các em lớn chắc là có gặp người quen thuộc nên cùng mưu với nhau về tề gần hết. Lúc yên, kiểm điểm lại chỉ còn 15 em, trừ em Kim, em Dậu gửi vào xưởng giấy Đoàn Kết của báo Cứu Quốc, em Hơn và em Mỹ gửi vào hãng thuốc lá Bắc Sơn. Em Hơn sau cũng chết, em Mỹ cũng không thấy đâu nữa.

Sau khi giặc rút, có Nguyễn Đức Thuận quen với giáo Đức65 Hội trưởng Hội Tế Sinh, cũng ở Lý Nhân rồi theo con gái về tề, nên có xuống thăm vườn trẻ, về bàn với tên Tâm66 rồi xuống bảo tôi rằng cứ đưa các em lên Đồng Tâm, Tâm sẽ để ra 20 mẫu ruộng cung cấp cho các em và mở một vườn trẻ ở Đá Gân, tôi tưởng thật mới gồng gánh lên. Không biết Tâm thấy tôi rồi nhận xét thế nào, hắn lờ đi không nói gì đến chuyện trước nữa. Thực lại là cái may lớn cho các em: Tâm bảo tôi để các em trong ấp, tôi không nghe, ở nhờ cái nhà của đoàn Nông nghiệp, tức là cái nhà tôi cùng các em sang ở bây giờ. Tâm bảo Thuận ra bảo tôi rằng “còn 2 luống khoai mòng67 ở đầu nhà nay ủng hộ cho các em rỡ lấy mà ăn. Thủy chung Tâm không có ra nhà tôi thăm các em lấy một câu. Tôi biết ngay thủ đoạn của nó một phần nào. Nó bảo Thuận ra bảo tôi rằng cho vài em lớn vào chăn trâu cho nó, nó nuôi cơm cho. Tôi tức quá, bảo Thuận rằng: các em học được cả đấy, có giúp cho vài học bổng để các em đi học thì tôi đồng ý, chứ không bao giờ tôi săn sóc các em để đi làm tôi tớ cho ai”. Tâm từ đó căm tôi. Tôi vào luôn mấy lần hỏi ruộng và soi68. Tâm chỉ cho 9 sào ruộng, soi thì không có. Tôi lên Đồng Tâm giữa ngày Nôen năm 1950. Sang năm 1951, Chính phủ hô hào tập đoàn sản xuất. Tâm cho Thuận rủ ông Du, anh Vân, anh Me, anh Đắc và hai anh em tôi vào tập đoàn nông nghiệp. Hai anh em tôi vào 2 suất, tôi giúp việc bình dân học vụ trong xóm và giúp các đoàn viên học. Công việc đang tiến hành, anh em tôi vỡ đất ngoài ven sông, trồng sắn trồng bắp, quyết kế tăng gia. Tháng 4, em Nghiêm tôi đi phục vụ ngoài công trường Chợ Mới (Cây Thị, Bắc Kạn) bị máy bay giặc oanh tạc chết69. Thế là nhà tôi thêm một tai nạn lớn: 5 cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ, mới có mình cháu Miễn là nhớn. Tình thế bắt buộc phải tìm đường sống thêm giúp tôi, nên cháu mới theo mọi người xuống Trại Cờ70 buôn muối gánh về Thái Nguyên bán rồi lân la dám về cả nội thành. Tôi bảo không nên; nhưng tôi không đủ tài nuôi được cả, nên câu nói cũng kém hiệu lực. Tôi thấy tôi hèn quá, biết mà không làm trọn được cái biết.

Tập đoàn lủng củng lắm. Thuận cậy thế Tâm, đàn áp đoàn viên, mấy lần suýt vỡ. Tôi cương quyết bênh anh Đắc mới duy trì được. Vụ mùa thắng lợi, đoàn viên cũng được lợi khá; nhưng rút lại vẫn là mắc mưu tên Tâm, vì nó vào nhiều cổ phần nên vẫn ngồi mát ăn bát vàng. Đoàn thù lao cho tôi 12 nồi thóc về việc học. Tôi hết sức từ chối rằng: “Tôi giúp người học từ năm tôi 15 tuổi, cho tới nay tôi không bao giờ đòi tiền, không bảo ai gọi bằng thầy, không coi ai là trò, chỉ là người biết trước giúp người biết sau mà thôi. Ngày nay lúc đang kháng chiến, nhân dân đi học là yêu nước; tôi giúp việc học cũng do lòng yêu nước, tôi không nhận thóc”. Đoàn cố ép và bảo tôi cứ nhận cho đoàn làm tròn một việc, còn thóc không dùng lại giúp việc học cũng hay. Tôi đành phải nhận; đồng thời thông qua gia đình71 là số thóc 12 nồi này là nhà ta không dùng, để tôi sắm sửa vào việc học và để các anh em trong xóm ai thiếu thì lấy, không lấy lãi, bao giờ trả cũng được. Ngoài ra, tôi lại đổi thóc cho các anh em có bắp72 ăn trước rồi đến mùa bắp đổi bắp cho tôi; vì tôi tính ăn gạo chỉ được 5 tháng, ăn bắp sẽ được 8 tháng. Việc này tên Tâm đã trù tôi ở một buổi nó gọi tôi vào nhà nó, có cả một vị ủy viên huyện Phú Bình và ông Phó Chủ tịch huyện Đồng Hỷ; vì tôi để các anh em dùng thóc không lấy lãi, mà nó thì đầu mùa cho người ta vay 2 nồi, cuối mùa phải trả thành 3 nồi. Tôi nói: “Đó là vì kinh tế, nhà tôi phải ăn bắp nhiều mà không có soi trồng nên phải làm thế”. Nó im thin thít. Cũng vì thế mà năm ấy nó không dám lấy lãi nặng như trước nữa. Số thóc 12 nồi, tôi để các anh em như cụ Dương, Cụ Hò, ông Côn v.v... dùng, và bán một số, sắm sách báo tranh ảnh trang hoàng cho trường học.

Cuối năm 1951, Miễn về nội thành nói rằng: “Tăng già chỉ chuyên mê hoặc nhân dân, nạn đàn tràng cúng vái, đồng bóng lại tệ hơn ngày xưa. Đó cũng là một cách gián tiếp giúp bọn thực dân đế quốc dễ bóp chết dân mình. Nghĩ mà thương cho các bạn cùng một tín ngưỡng, tôi mới gửi tập tài liệu giáo dục tăng già của Hội Phật giáo Cứu quốc huyện Kim Anh đã nghiên cứu về cho anh Phạm Xuân Đường (nguyên là con rể nuôi của tôi và cũng đã học tôi mấy năm. Anh trước theo kháng chiến làm huyện đội dân quân ở quê anh thuộc Hải Dương, sau anh giả danh vào làm nhà in cho chùa Quán Sứ và hoạt động cho kháng chiến ở khu phố Quán Sứ. Cuối năm 1952, việc bại lộ, anh bị giặc Pháp bắt chưa biết còn sống hay chết73) để anh tìm cách giác ngộ cho nhân dân trong nội thành. Trong đó có kèm một bài thơ rằng:

“Nhớ Tổ Bách Trượng xưa, Thật thành thần lao động; Một ngày chẳng làm chi, một ngày cam trống bụng. Chúng ta là hạng nào? Mà không biết tự trọng. Cũng len nhũn lụa mềm. Cũng chè xuân thuốc cống. Cũng xuống ngựa lên xe. Cũng tiền rương thóc đống. Ngũ dục thả cửa chơi; Ngũ cái tha hồ hống! Hỏi nguồn ở đâu ra? Đục vào lưng quần chúng. Học chưa quá i tờ. Đạo hoàn toàn ngô ngọng. Hạt gạo nhớn nhường non. Đâu phải là ứng cúng. Cứ theo lẽ chân thường. Ai cũng có quyền sống. Có làm thì có ăn. Biếng lười tất mất giống. Đừng tưởng lầm ngày xưa, Người ta còn mê mộng. Mà dùng cách thôi miên, Mà tính bề lợi dụng. Hết cầu cúng đàn tràng, Lại bùa bèn đồng bóng. Thả săn sắt đòng đong. Bắt cá rô cá bống. Bòn rút hết hầu bao, Để tự cung tự phụng! Dân vì đó suy tàn, Nước vì đó lủng củng. Làm mồi cho thực dân, Dễ bóp cổ bưng họng. Hỡi đệ tử Thích Ca, Đường tu nhằm cho đúng. Trông gương Phật tổ ta, Như bể trời lồng lộng, Lục tổ là tri lương, Tứ nhiếp là tầu súng. Hy sinh vô tận cùng, Phục vụ cho đại chúng. Phúc trí đều như nhau. Viên thành công tu chứng”.

Miễn về quê. Một người trong họ, ở nhà của cha mẹ tôi và hưởng hoa loại cái vườn nhỏ của cha mẹ tôi, thấy tình cảnh thiếu thốn có đưa cho Miễn một số tiền nhỏ. Miễn đưa cho tôi; tôi trả Miễn và bảo: “Lộc của ông bà để lại cho các cháu dùng cho đỡ khổ” chứ tôi chẳng dùng đồng nào, mấy lần đều như thế.

Năm 1952, năm nay thêm được hơn mẫu ruộng nữa, năng suất cũng tăng lên 15%; hoa mầu kết quả khá, các em tươi dần. Tháng 7 năm ấy, cán bộ nông hội tỉnh là anh Ngữ về hướng dẫn nhân dân trong xóm tranh đấu đòi giảm tô đúng mức 25%. Lúc đó tên Tâm còn làm Phó chủ tịch huyện Phú Bình; tay sai đắc lực nhất là Nguyễn Đức Thuận làm Hội đồng nhân dân. Anh Ngữ họp kín với anh em tá điền cốt cán tại nhà anh Hạ, có cả tôi. Tôi thừa nhận thấy anh Ngữ đứng hẳn về phe nông dân, nên tin lắm. Họp nửa chừng, Thuận tới chất vấn anh Ngữ rằng: “Chính phủ bảo giảm tô xuống 1/3 hoa lợi thường niên là đúng. Tôi thấy ông Tâm giảm từ 8 nồi xuống 6 nồi rưỡi là quá 1/3 rồi”. Anh Ngữ trả lời rằng: “Không cứng nhắc như thế, ruộng xấu làm tốn công, phải giảm đến 50-70% cũng có”; và bảo anh Lâm nông hội xã rằng: “Phải đề phòng kẻ phản động đây”. Cuộc đấu tranh này cũng gay go lắm. Tên Tâm triệu tập anh em tá điền họp luôn 3 tối, dùng đủ mọi cách dọa nạt, dụ dỗ, dằn dỗi, chịu lún ăn xin. Nhưng rút cục nó phải giảm đúng mức và giảm từng hạng ruộng. Trong đợt này có một anh tá điền già là Nguyễn Văn Đa đi sát và ủng hộ cho Tâm và Thuận, đe dọa tôi rằng: “Đa số nhân dân về với ông Tâm rồi, ông mà tranh đấu là gãy đấy” và nói một cách rất hùng hổ rằng: “Chủ điền, tá điền người ta đồng ý là được rồi; cán bộ còn xúi dục đấu tranh làm gì; cán bộ làm thế là làm loạn dân!”

Cuối năm 1952, nghe tin bọn tăng già nội thành ra làm tay sai cho giặc Pháp. Tôi giận quá có viết một bài cảnh cáo chúng gửi về cho anh Đường tìm cách phổ biến. Nội dung bài ấy có hai phần. Phần I chỉ rõ tinh thần cách mạng của Phật giáo Thuyền tông. Phần II chỉ rõ chỗ suy kém của Pháp, và chỉ cho đường về với kháng chiến (những bản gửi về đều có lưu một bản lại, xin đính kèm theo đây). Từ khi biết tin anh Đường bị giặc bắt, tôi không gửi gì nữa và thủy chung tôi cũng không có một lời nào chữ nào với bọn tăng già gian ác cả. Chỉ nhận được một tấm ảnh của gia đình anh Đường. Tôi nghe nói anh Đường bị giặc bắt, vợ con khổ sở lắm; tôi bảo bớt số tiền của người quen tôi gửi cho tôi, đưa cả cho vợ con anh Đường mưu sống (số tiền này chừng độ 1.000 đồng Đông Dương).

Đầu năm 1953, tôi đọc báo biết công tác của Chính phủ năm nay có công tác phóng tay phát động quần chúng bắt địa chủ giảm tô. Tôi là một người trong giai cấp bị bóc lột, lẽ ra phải cùng giai cấp đấu tranh. Nhưng thế lực của tên Tâm lúc đó còn mạnh lắm: 1) Tâm còn làm Phó chủ tịch huyện, cho đến khi bị cách, dân cũng không biết, vẫn tưởng là nó về nghỉ phép. 2) Thuận làm Hội đồng nhân dân, duy trì kinh tế của Tâm, mua chuộc các cán bộ xã riết; ai qua lại đều vào đó cơm nước tinh tươm (vì lúc đó cán bộ hiểu Tâm một phần nào rồi nên vào nhà Tâm ít hơn). Thuận lại tóm được cả trưởng xóm là Nguyễn Văn Sinh, công an là Nguyễn Văn Giao (hai người này là hai chú cháu, được Tâm giúp cả thóc và tiền 40 vạn đồng; mãi cho đến lúc đấu Tâm rồi, họ mới thú và trả nông dân) cũng ra sức doạ nạt đàn áp nông dân để cho khỏi nảy lòng căm thù đấu tranh. Phiên họp xóm nào Thuận cũng nói: Năm nay Chính phủ thực hành chuyên chính; liệu ốm đòn, tù ốm tử. Ai có ý thắc mắc về tô tức như ông Xuân, thì Thuận mắng: Ông phát biểu dè dặt chứ, liệu không lại ốm đòn. 3) Lý Hốt cùng Đĩnh, Sinh, Giao và mấy người trong xóm ngoài xóm nữa tổ chức một tập đoàn giồng mía, được Tâm cho rất nhiều quyền lợi, lấy cả cây kéo mía của nhân dân bán chịu cho đoàn, nên đoàn ủng hộ Tâm một cách đắc lực lắm, tuyên truyền hăm dọa nhân dân, phân tán tài sản cho Tâm rất nhiều.

Vào hồi tháng 3-4 năm ấy, Thuận về phổ biến cho xóm biết cần phải tổ chức lại các ngành các giới, duy giới Nông hội thì Thuận nói một cách buông trôi. Nhưng anh em nông dân thì chú trọng nhất giới ấy vì luôn luôn chúng tôi đem báo Cứu Quốc và sách Phát động vào đọc cho nhân dân nghe, đã hiểu được phần nào rồi, nhất là cuộc phát động ở Đồng Bẩm74 ảnh hưởng rất mạnh, nên anh em rất nóng sốt với Nông hội. Chỉ trong một buổi họp có mấy tổ sản xuất liên tịch đã lập được Nông hội, bầu ông Đoán làm trưởng tổ, tôi làm phó. Lúc đó chưa ai được học hành gì cả, chưa biết tổ chức thế nào. Nghe lời Thuận bảo củng cố mà chả hiểu thế nào là củng cố. Điều lệ cũng chẳng có, nhưng anh em nông dân rất hào hứng, có cái tâm lý căm thù sôi sục muốn nuốt sống địa chủ ngay. Thuận biết thế, nên lúc họp bầu, nó chẳng nói gì. Đến lúc bàn đến việc tiến hành, nó mới thắt vào lý là tổ chức sai, không có điều lệ thì làm gì được. Thế là Nông hội kém sút, phiên họp hão ra về còn bị phái Thuận cười là phiên họp “không tiền”. Chúng tôi không nản, cử ông Đoán xuống thôn Đồng Ao hỏi. Ông Đoán không biết chính ông ủy nhiệm thôn lúc đó là ông Mẹo kiêm cả đại biểu Nông hội, nên không đến hỏi ông Mẹo, lại đến hỏi ông Trung là Nông hội xã. Ông Trung bảo ông Đoán xuống xã trực tiếp với ông Bí thư Nông hội xã, cùng dự buổi họp Nông hội xã một ngày một đêm. Khi về lại triệu tập Nông hội xóm, có phối hợp với chính quyền để bình nghị các nông hộ nghèo, rồi lấy thóc nghĩa thương75 cho anh em vay làm thóc giống. Lúc đó, có mấy anh em mới ở nơi khác đến như ông Thứ, anh Bản v.v...đều xin ruộng Tâm, thấy Tâm chỉ cho những người có tiếng hơn như bà Bằng, nên họ đưa ra Nông hội xóm giúp ý kiến. Nông hội nhận thấy lúc dó số ruộng của anh em tá điền cũ trả có tới hơn 20 mẫu, mới quyết định cử ông Đoán và tôi trực tiếp thảo luận với Tâm để số ruộng đó Nông hội bình nghị cho các anh em làm. Chúng tôi tới gặp Tâm. Tâm bằng lòng đưa cả mảnh bản đồ ruộng ấy để Nông hội dẫn ruộng. Sau ba hôm lại họp. Phiên họp này quyết định hai việc: thóc nghĩa thương và bình nghị ruộng. Sắp họp thì thấy Nguyễn Tiến Học, Hội đồng nhân dân xã coi việc nghĩa thương cùng ông Mẹo tới. Trông sắc mặt mấy người, chúng tôi đã đoán biết là có sự gì không hay. Phiên họp này Lý Hốt làm chủ tịch, anh Bản làm thư ký. Ông Mẹo nói qua về việc Nông hội xóm bỏ qua ông đi thẳng với xã là sai nguyên tắc. Đồng thời ông tự nhận vì bận quá nên quên cả nhiệm vụ. Còn Học thì nộ nạt nông dân, bênh vực địa chủ chẳng khác gì bọn quan lại cũ một tý nào. Nó mắng chúng tôi là đội lốt Nông hội ăn cướp ruộng, ăn cướp bản đồ của Tâm, nó đe thằng nào dám động đến thóc nghĩa thương, nó phá tan tinh thần giai cấp tương trợ nhau. Thuận ngồi sát cánh thì thầm thụ kế và thỉnh thoảng điểm một câu: “Như thế là phá rối sự an toàn trong ấp...ông Tâm là địa chủ tiến bộ...có phải Tây trắng đâu”. Học nói rất nhiều, rồi đến Lý Hốt tiếp hơi mắng anh em nông dân vô ý thức, tổ chức sai, và kết luận: “Ông Tâm vẫn có quyền lấy lại ruộng, vẫn có quyền đuổi dân ra khỏi ấp”. Thế rồi cả tụi đó lấy thế lực đại biểu chính quyền bắt ông Đoán và tôi sang xin lỗi thằng Tâm! Thế là Nông hội tan rã. Nông dân bị một thùng nước lã giội vào ngực, tê tái ra về. Hôm sau chúng tôi tới bảo thẳng cho Tâm là cứ việc phát ruộng thu tô, Nông hội chưa làm kịp. Tâm cười khẩy và bè lũ Tâm như Hốt, Da v.v... thì cười rộ và tỏ vẻ kiêu hãnh lắm. Nhưng chúng tôi không sợ, nghỉ một vài hôm lại bí mật tìm tài liệu ngấm ngầm đấu tranh. Tụi chúng biết thế nên cũng cố kết76 nhau và hành động ráo riết, bằng cách gọi 4 tên tá điền cũ là cụ cai Tư, cụ Hò, ông Đương và Vượng đến, hứa cho mỗi nhà 4 mẫu ruộng. Hốt thì đi từng nhà tuyên truyền hăm dọa. Sau đó gần một tháng, tôi thấy ông Đoán bảo đi lấy tài liệu bí mật gửi xuống Nông hội thôn... rồi ông Mẹo lên họp củng cố lại Nông hội. Anh em bầu ông Nguyễn Bá Xuân làm trưởng tổ, tôi làm phó. Từ đó chỉ có một việc tiến hành lấy tài liệu thôi, cũng vẫn chưa có điều lệ học tập. Sau khi chúng tôi củng cố lại, tụi địa chủ Tâm hơi núng, không dám đàn áp như trước nữa. Trong một phiên họp sau khi được củng cố mấy hôm, tụi Thuận có chủ trương phá bằng cách đưa những lý luận hiểm hóc ra để bóp chết nông hội. Thuận hỏi: “Tôi là bạn thân của Tâm, lại là Hội đồng nhân dân xã; từ nay có được vào chơi nhà Tâm không?”. Tôi nói: “Trong điều lệ có mục kỷ luật tự giác, chắc ông còn hiểu hơn chúng tôi”. Đỉnh thì đưa ra câu hỏi: “Tôi cũng ở trong đoàn làm mía, tôi thấy giấy giao kèo của Tâm cho đoàn làm mía không thu tô, thế là sai. Vậy xin Nông hội cho biết đoàn làm mía nhận có được không?”. Chúng tôi nói: “Việc đó chúng tôi không hiểu rõ, để đợi thỉnh thị”. Đỉnh cười và bảo: “Thế là Nông hội vô giá trị”. Rồi thì Thuận báo cáo về tôi rất nhiều. Sinh cũng báo cáo lung tung. Đã sắp đến ngày được học tài liệu phát động mà giữa tối nhân xóm chúc thọ sinh nhật Hồ Chủ Tịch, Sinh đứng trước công chúng nói: “Phải thanh trừ bọn quấy rối hương thôn”. Mục đích là đe dọa chúng tôi. Hốt thì đi tuyên truyền nông dân rằng: “Đã nắm được đủ tài liệu rồi, phen này thì khối thằng phải đi tù”. Chính anh Ngọc còn sợ và bảo ông Đương như thế. Lớp học bí mật mở ra, phe địa chủ cứ tới, thành ra phải đình ngay và lựa chọn lấy 8 người có tinh thần tranh đấu bền bỉ xuống đền Đá Gân học 7 ngày. Hết khóa lại mở liên tiếp ở xóm 4 khóa. Tôi được anh em cử ra làm hướng dẫn; rồi lựa chọn ban trung kiên, đội chủ lực. Nông dân rất phấn khởi, đoàn kết chặt chẽ. Cuối tháng năm, tên Tâm chây thuế vụ hạ, bị bắt cả hai vợ chồng đi. Ở nhà, con nó phân tán tài sản tứ tung, nhất là đem xuống nhà anh Ba Lê ở Đồng Tiến, một người có chân trong đoàn làm mía giúp Tâm đắc lực và uy hiếp chúng tôi cũng khá mạnh. Một buổi sớm, anh em trung kiên thấy nhà Tâm phân tán tài sản nhiều, bèn báo xuống xã. Xã ủy công an và ủy nhiệm thôn lên giữ lại, làm biên bản xong giao anh Sinh thi hành. Anh Sinh cứ cho đem đi và còn nói anh em nông dân làm thế là sai. Có người (chú Gioóng) trông thấy người đến gánh đường mật ở nhà Tâm, đi báo Sinh, nhưng Sinh lờ đi. Vì những cớ đó mà xã hạ công tác anh Sinh (qua một phiên họp toàn dân xóm đồng ý). Sau đó, tôi được thôn cử làm đại biểu xóm xuống miền giúp việc sưu tầm tài liệu và lập hồ sơ. Dự lớp học miền mở ba ngày. Chúng tôi chả hiểu làm thế nào cả. Xã giao mẫu về thế nào cứ thế mà làm. Tài liệu tên Tâm tôi cùng anh em lấy được cụ thể, phong phú, nên làm cũng tàm tạm dễ. Làm xong đưa lên trên, xã bảo không được, phải làm lại hai lần. Đến lúc đội phát động về lại cho mẫu khác để làm lại. Tôi điếc, họp chả nghe được thủng mấy câu! Đó là một cớ, còn không biết vì những cớ gì nữa mà tôi chả được Đội bảo ban hỏi han gì đến. Chỉ như cái máy biết viết, viết suốt ngày rất vất mà tự cảm thấy mình vô vị quá. Lắm lúc muốn thôi, nhưng nghĩ đến công việc dân giao cho đành phải bấm bụng mà chịu.

Đội về gần một tháng thì bắt rễ xâu chuỗi, bỏ rơi Xuân và tôi cho đến cuối cùng mới cho vào Nông hội mới, và Nông hội mới thì bầu cháu tôi là chị Miễn làm trưởng tổ. Tôi như người trong mộng, ngày ngày xuống miền cắm cổ viết hồ sơ thôi. Tôi nhận thấy từ Đội đến Nông hội xã vẫn không tin tôi, có bảo tôi làm bản tự khai lý lịch; tôi làm kỹ lưỡng gửi lên, cũng chả thấy biểu thị ra sao cả. Công việc xâu chuỗi bắt rễ thì do Chi bộ làm. Công việc ấn định thành phần thì chỉ định Địa và Phú thôi, còn Cố, Bần, Trung77 thì mặc dân. Ở lớp học, chúng tôi học bản quy định hai buổi, rồi ai nấy tự định thành phần, mọi người công nhận, thế là được. Người này Trung cũng kéo cả mọi người lên Trung. Đói khổ cũng là Trung, chỉ căn cứ vào điều không làm thuê, thế là Trung. Nhân dân thắc mắc nói với Đội, Đội bảo cứ học nữa đi, thông tự biết. Đến lúc chia quả thực thì chỉ họp dân bình nghị chia làm ba hạng: nghèo quá, nghèo vừa, kha khá; rồi theo nhân khẩu mà chia, chứ không chú trọng vào thành phần mấy.

Định thành phần trên cũng lạ. Như Nguyễn Đức Thuận, do anh Thành phó phân đội cùng các người thân tín trong chi bộ nghiên cứu cả đêm (tôi cũng như dân, không ai được biết) mới ấn định thành phần địa chủ; quản chế tài sản giữa ngày nó cho cưới con gái, phá tan cả đám cưới. Việc này anh Thanh định, rồi mới hỏi tôi mấy điều, như: “Thuận đến đây từ bao giờ, mức sống thế nào” thôi. Tôi cũng nói qua là Thuận ở Hà Nội lên thẳng đây từ năm 1946, làm ăn không nhất định, lúc làm ruộng, lúc làm tiểu công nghệ, mức sống cao, bạn chí thân của Tâm v.v... thế thôi. Đến ngày Đội gần rút, anh Hoàng phân đội trưởng thôn tôi lại bắt họp Nông hội trả lại thành phần, đánh Thuận xuống “Nông nghiệp kiêm công thương tiểu tư sản, tay sai hạng hai” v.v... Sự trả thành phần này, tôi thấy trong nội bộ Đội không đồng ý nhau. Anh Đại đội trưởng và anh Thành phản đối, mà anh Hoàng cứ làm. Sau khi trả thành phần, tối hôm trước anh Hoàng phải đấu dịu với Thuận. Thuận yêu cầu tối hôm sau phải họp xóm tuyên bố cho nó. Hôm sau Thuận và phe Thuận như Hốt, Đỉnh v.v... họp nhau ở nhà anh Trung, cháu gọi Thuận bằng chú ruột, bàn cách trả thù và đi tuyên truyền nhân dân để giúp sức. Công an là chú Gioóng báo với Đội, Đội lại cử anh Gia, ông Mẹo về chủ trương buổi họp, đập tan luận điệu của Đỉnh và Hốt, bắt xin lỗi mới trấn áp được; không thì nó còn xoay nhân dân chưa biết đến thế nào.

Công việc đấu sửa soạn có vẻ đường hoàng, khổ chủ được bồi dưỡng cẩn thận, tài liệu phong phú, lý lẽ đúng, đại chúng đông đảo, nên đấu được thành công mỹ mãn. Thanh toán bắt lũ địa chủ trả nợ vất vả, nhưng tịnh không dùng nhục hình, kết quả như ý.

Về chia quả thực thì không được thỏa mãn, vì dân học chưa thông, cán bộ cũng chịu giải thích rất khó nhọc, nhưng không ai chịu nghe bằng sự thành thực. Như ông Giao đã có lỗi bị địa chủ mua chuộc, đã được chia còn đòi mãi, cán bộ giải thích thế nào cũng không nghe, đến nỗi cán bộ phải tuyên bố rằng: “Các anh em đề cao cảnh giác, kẻo tay sai nó lọt vào nó phá tan đoàn kết đấy”, rồi Giao mới chịu im. Như anh Gioóng thì bảo cả cán bộ cả dân là làm sai. Lúc chia quả thực thì anh là trung nông, nhưng anh tranh là bần nông; lúc bình nghị đi dân công cần bần cố nông thì anh nói anh là trung nông, anh không đi. Cán bộ phê bình anh như thế là không tin ở Đảng cũng như nhân dân. Anh cũng cứ cãi không im. Những cớ đó sau này mới thành ra vỡ đoàn kết và đổ cho tại tôi hết. Sự thực là phiên họp nào cũng có cán bộ Đội phát động cả, còn chả làm nổi vậy. Riêng đối với tôi, vì anh Hoàng, anh Gia chỉ ăn ở một nhà chú Gioóng, ở chung với chú Ba Choòng, không thực hành ba cùng, ít tới nhà tôi, không hiểu tôi, chỉ tin ở sự báo cáo của phe địa chủ. Về bên nhân dân, thì có mấy người thiếu trẻ chăn trâu bò muốn bắt các em ở với tôi về nuôi, nên họp riêng mấy người chia quả thực cho tôi 1 cân, cho các em 200 cân, và bảo các em thành phần khác, tôi thành phần khác. Lúc Đội sắp rút, bảo tôi phải phân tán các em mỗi em một cửa78, tôi chả biết nói thế nào, nhưng sau không thấy nhắc đến. Tôi chẳng hiểu vì cớ gì; chỉ nghe mang máng đâu vì anh Đại đội trưởng không đồng ý. Ôi! Lúc bình nghị cá nhân gương mẫu trong dịp phát động thì tất cả bầu cho tôi, mà lúc chia quả thực thì đập tôi một cách nhục nhã. Hơn nữa còn bắt phải rẽ đàn tan nghé nữa; đau đớn cho tôi biết chừng nào79! Tình hình ở xóm tôi rất phức tạp: 1/3 là anh em Hoa kiều, 1/3 là nhân dân mới tản cư tới, 1/3 là anh em tá điền cũ, thì trong đó có Lê Quang Vượng trước là tay sai cho Tâm, lúc đó quy định là phú nông; hắn lại nắm được một số cốt cán, khéo dùng nó thì nó đứng vào phe mình, gạt mạnh nó thì nó kéo một số cốt cán ra. Cho nên công việc đấu tên Tâm lúc đó giành được thắng lợi tất cả là một sự khó, nếu không có Hồ Chủ Tịch, có Đảng, thì thực chả ai có sức mà đánh gục nó được. Thực tế sau khi phát động, nông dân đều tươi hẳn lên vì ai cũng được chia trung bình 40 - 50 cân cả.

Sau khi Đội rút, tình đoàn kết nhạt dần. Phe địa chủ nhè chỗ yếu chênh lệch về quả thực nên dễ xuyên tạc. Tôi bị chán ghét cũng vì chia quả thực, mà tai hại nhất thì có hai cớ: 1) Trả lại thành phần Thuận, nhân dân hoang mang ngờ tôi có ý hại người. Thuận nhân đó càng dễ xuyên tạc. 2) Cháu Miễn tôi được Đội cất nhắc vào ủy ban; nhân dân cho tôi là tích cực để luồn lọt cho cháu vào địa vị. Một con nhãi con ở đâu đến lại vào ủy ban, trên cán bộ xóm80. Cho nên cả các anh em trước cùng một chí một lòng với tôi đều trở nên thù ghét tôi cả. Thực ra việc này tôi không biết qua một tý gì, mà tôi không bao giờ có ý định đó. Sự thực lúc đấu thành công, anh em cán bộ hỏi tôi, có ý muốn đề cử tôi vào ủy ban hay Chấp hành Nông hội; tôi đều cố từ; vì tôi tự biết tôi hay ốm, không có tài làm chính trị, sinh kế lại thiếu quá.

Rồi thì con gái lớn tên Tâm ra ở nhà anh Cần, cán bộ thông tin và bình dân81 xóm. ủy ban nông hội xã về họp hai kỳ bảo đuổi cũng không đuổi. Rồi con gái thứ hai tên Tâm ra ở nhà anh Ngọc, phó tổ Nông hội xóm. ủy ban Nông hội xã về họp bảo đuổi còn tự ái cãi lại. Rồi thế lực kinh tế của phe địa chủ dần dần tràn ngập vào nhân dân, tranh nhau mua đồ, cãi nhau đắt rẻ, trong xóm rối loạn, chả ai bảo được ai nữa. Nông hội thì 5 tháng không sinh hoạt được, may còn có ủy ban làm việc cứng, không thì nhân dân chưa biết còn bị tai hại đến đâu.

Vụ mùa năm 1953 kết quả tốt, nhất là nhà tôi, ruộng có cái sản lượng 60 nồi82 một mẫu, tính đồng đều cả tốt xấu lên tới 45 nồi một mẫu, thu hoạch được 130 nồi, ruộng có 2 mẫu 9 sào. Lợn bán được gần 3 triệu tài chính83, rau bán gần được một triệu. Sang năm 1954, cố tạo ruộng chiêm cấy được 1 mẫu, thu hoặch được 15 nồi, khoai sọ giồng được hơn 4 sào, gặp nắng hạn, tôi đào giếng tưới nên tốt lắm. Nhờ thắng lợi ấy nên nhà tôi sinh kế tiến nhiều, các em đã được dần dần no cơm ấm áo, nhớn nhao khỏe mạnh trông ra tuồng cả.

Văn hóa thì em Vũ học lớp 6; Liên, Khuê học lớp 4 trường Huống; còn mấy em ở nhà thì em Như học tương đương lớp 3; Thị, Báu tương đương lớp 2, bé nhất là em Kiêm cũng đã biết đọc biết viết. Vì thế mà khi Đội cải cách mới về được một tháng, đã có một số người tung dư luận ầm lên rằng chính tôi là địa chủ phải đem ra đấu mà chia thóc, chia khoai, chia người84, chia trâu. Tâm lý như thế thực cũng dễ hiểu cái cơ nguy khốn của tôi vậy. Có người hiểu thì nói: Mấy năm trước các em còn bé, đi đâu ông ấy còn phải gánh, thì chả thấy ai hỏi đến. Ngày nay các em nhớn nhao giúp đỡ được đôi việc thì mưu chiếm đoạt. Cũng là một luận lý xác đáng.

Từ khi tranh đấu giảm tô rồi, tôi làm việc nhiều, lại bị oan ức nên ốm luôn 3 tháng người suy yếu dần. Nhưng giới phụ lão vẫn tín nhiệm tôi, bầu tôi vào Ban chấp hành phụ lão xã, tôi vẫn cố gắng phục vụ. Cán bộ như các ông Tâm, Mẹo, Thụ cũng nhận thấy tôi có chút khả năng, nên những việc cần đến như Ban cung cấp lương thực, Ban Vận động sản xuất, mua thịt, mua đỗ, chấn chỉnh tổ đổi công, tổ sản xuất, tôi đều cố gắng phục vụ không dám lười biếng. Đối với các cán bộ từ xã đến xóm, việc gì cần đến tôi, tôi biết tôi đều làm giúp. Như việc ruộng của tên Tâm, vì lúc đấu nó, tôi được dự vào việc làm Ban tịch thu 1/3 ruộng đất, nên tôi hiểu biết ruộng đất. Nông hội xã về chỗ nào không rõ, gọi tôi, tôi chỉ ngay. Nông hội xóm chưa quen ruộng đất tính toán, tôi cũng tính85 giúp, và cũng giúp sức nhận ruộng không bỏ sót ruộng, và còn tìm thấy được một số ruộng chưa rõ của ai. Như công an xóm không biết chữ, lúc làm tổng kết vệ sinh bảo tôi điền vào mẫu khai, tôi cũng làm giúp. Chỉ có thế thôi, ngoài ra không có đi lại cầu thân với ai để cầu danh cầu lợi riêng cho tôi. Cụ thể như nhà ông Tâm86 bí thư chi bộ xã, tôi cũng không biết ở chỗ nào. Cùng làm việc đấu tên Tâm với Nông hội mà tôi chỉ ăn cơm ở nhà anh Sang có một bữa với anh Thìn, anh Niên; tịnh không đi lại với ai nữa. Thế mà ghép cho tôi vào tội cấu kết cán bộ, lái tất cả cán bộ từ xã đến xóm. Tôi không thể hiểu được thế nào là lái, mà lái để làm gì vậy. Tôi biết tôi là người ít nói, ít thị phi87, không cầu thân với cán bộ nào; vì tôi sợ thân cán bộ thì mình hay cậy thế làm lỗi, nên cán bộ muốn cho thân, tôi cũng lảng.

Cuối tháng năm88, Đội về. Tôi những khấp khởi mừng thầm rằng thế nào Đội cũng đến ba cùng89 với nhà mình, thế nào mình cũng được phục vụ nhân dân trong cuộc cải cách này. Tôi chủ quan thật vì tôi nhận thấy nhà tôi khổ hơn các anh em bần cố trong xóm nhiều. Anh em chỉ có một nỗi khổ bị địa chủ bóc lột, còn nhà tôi lại thêm cái khổ vì đế quốc thực dân, người nào cũng mất cha mất mẹ mất của mất nhà vì chúng. Chính tôi là người đối thủ số một của địa chủ; ở đây tôi không hề dính dáng tí gì, lòng trong sạch, chí căm hờn, tự thấy là đúng, có lẽ nào cán bộ lại chẳng đến nhà mình? Dè đâu sự thực nó không thế. Đội về, tôi được đi học có hai tối rồi bị bỏ rơi, một mình một nón, mù mịt chả còn biết gì nữa. Nhân dân thì coi tôi như kẻ thù, tôi chào hỏi cũng không thèm giả lời. Rồi dư luận đồn ầm lên rằng tôi có hàng nghìn mẫu ruộng phát canh thu tô, tôi làm quản lý ấp Tế Sinh ..., tôi chính là địa chủ. Lúc đầu còn nhiều người còn dám nói sự thật cho tôi, sau cứ dần dần bị chèn phải chịu im. Sự thật là tôi không có tư hữu ruộng đất gì cả; chỉ là cố vấn của Hội Tế Sinh. Rồi lại cho tôi là bóc lột các em, sống một đời sung sướng trên máu của các em, cho vay lãi, mua lúa non, cho nuôi lợn rẽ, bóc lột nhân dân. Cho vay lãi thì tôi tuyệt không, chỉ có nhường cơm xẻ áo thì có; đã nói rõ cái cớ có thóc để anh em dùng ở trên. Sự thực, người nhà tôi90 có mua của anh Cú 7 nồi lúa non, cùng một lúc với ông Lợi. Ông Lợi mua hơn hai chục nồi thì không nói, chỉ buộc riêng tôi; tôi thực không biết, biết thì không bao giờ tôi để làm thế. Cho nuôi lợn rẽ, cũng người nhà tôi cho nuôi 4 con, trong xóm cũng nhiều người làm, như chú Gioóng cho anh Còn nuôi, em ông Giáo cho cụ Hò nuôi v.v... Lúc tôi biết, tôi bắt rẽ chia ba, để cho người nuôi hai phần; sự thực có ông Đương nuôi lợn rồi. Lại cho tôi biển thủ của thiếu nhi 70 vạn đồng Tài chính. Sự thực là tôi lấy số tiền thóc thù lao của tôi giúp các em vốn nuôi lợn; nuôi 3 con, chết 1 còn 2 con bán được 70 vạn đồng Tài chính, trừ cám bã được lãi mấy vạn ủng hộ Quỹ Thương binh, có biên lai bưu điện. Tôi cày bừa giúp các em trồng bắp cấy chiêm, mới có tiền làm trụ sở, liên hoan bốn, năm lần. Tôi đem cả của và sức lao động mưu cho các em vui, lại bị buộc tội là lợi dụng và biển thủ. Sự này có sổ sách, có anh Thành phụ trách thiếu nhi biết. Hơn nữa nuôi lợn có lãi không, nông dân ai cũng biết, làm gì có lãi 70 vạn mà biển thủ? Riêng nhà tôi 7 người chết vì giặc, vì đói; các em cùng tôi theo kháng chiến 8 năm, đói rét khổ sở biết bao, ngày nay mới hồi lại dần, đều do phần lớn sức lao động và làm ăn có kế hoạch của tôi.

Ngày 16 tháng 6 năm 1954, Đội cho gọi tôi vào xỉa xói mắng nhiếc luôn ba, bốn giờ đồng hồ, vu cho đủ các tội ác, dùng những câu nói rất khinh bỉ hà khắc, chỉ khác đấu một sự là chưa phải quỳ thôi91 ! Tôi thản nhiên lòng hỏi lòng không một tội nào tôi có làm, thì tội không phải tội tôi, mà là ở bên nói sai thôi. Tôi không oán giận gì cả, vẫn một niềm kính mến nhân dân, chỉ xin nhân dân nhận xét kỹ, có lỗi thì giáo dục cho thôi. Tôi không được cãi; vì cãi cũng vô ích, nói vài câu đã cắt đứt, ai nghe lẽ phải nữa mà nói. Tôi vẫn tin tưởng rất sâu sắc vào chính sách của Đảng, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Hồ Chủ Tịch, nhất định nỗi oan kỳ dị của tôi tất có ngày tỏ ra. Cùng chịu khổ với tôi tối hôm ấy có ông Xuân, chỉ có lỗi hay cãi nhau, mà sự cãi nhau đó, theo tôi nhận xét chỉ vì tính ông Xuân nóng, theo lối cổ đối với người kém tuổi nói như dạy con dạy cháu, mày tao tục tằn, mà phe địa chủ thì lợi dụng tính ấy trêu cho cãi nhau để buộc tội rồi không có tinh thấn tranh đấu với nó nữa. Sự thật ông Xuân chỉ vào bậc bần nông, tranh đấu hăng, không dây dưa gì với địa chủ, thế mà cũng bị xử ức đến thế; người sáng suốt nghe thì sẽ hiểu ngay trong đó nó thế nào rồi. Sau tối làm nhục tôi, từ đó nhà tôi y như nhà địa chủ, chả ai dám tới nữa, chỉ còn mỗi anh Bản vì thâm tri tôi là oan nên thỉnh thoảng còn qua lại và trình bày hộ một đôi câu thôi. Giữa mùa cấy, bắt hai người lớn đi dân công, tôi cùng các em cố gắng làm; buồn thảm nhục nhã, sống cũng như chết. Tôi toan tự tử từ tối hôm 16, nhưng nghĩ tới Hồ Chủ Tịch sáng như mặt trời, vả lại tôi không có tội thật, tự hỏi lương tâm không thấy hổ thẹn, nên tôi phải gượng sống để đợi ngày sáng tỏ. Đối với tôi, sự chết không có giá trị như người khác, nên muốn chết lúc nào cũng được. Nhưng chết mà có hại cho chính sách thì tôi không dám coi thân tôi hơn nước, hơn dân; mà sự thực sống oan uổng như tôi thì thường tình mấy ai nhẫn nổi.

Nhận xét qua mấy điểm lớn:

Đứng hoàn toàn về mặt khách quan, đủ sự thực, đủ lẽ chính mà nhận xét, nhất là lúc này, lúc tôi không còn tử sinh vinh nhục nữa, mà tôi nhận xét cho đúng đáng thì tôi thấy:

1. Về phần tôi:

Bố mẹ, anh em, chị em chí thân 7 người chết vì giặc Pháp, vì địa chủ phong kiến. Năm 1945, tôi phải chôn hơn 100 em chết đói và sốt định kỳ, phục vụ hàng mấy vạn đồng bào bị nạn đói mà tôi không thực hiện được chí căm thù xông ra tiền tuyến giết giặc để báo cái thù không đội trời chung, chịu sống loanh quanh ở hậu phương phụ trách trông một số em, không làm tròn nhiệm vụ, để các em đói rét chết chóc, tội ấy dù chết vẫn chưa hết.

2. Về phần nhân dân xóm Đồng Tâm:

90% bị lung lạc trong lưới kinh tế của địa chủ và bị xuyên tạc, do phe địa chủ chi phối nên đã cam tâm làm trái lương tâm, sai chính nghĩa, vô hình chung buộc kẻ trung thành với giai cấp, dứt khoát với địa chủ, như tôi, vào cái oan thiên cổ kỳ oan.

3. Về phe địa chủ:

Đã tài cám dỗ nhân dân lại khéo luồn lọt vào gia đình cán bộ92 để đánh lạc hướng đấu tranh của nhân dân và lối chỉ đạo của cán bộ Đội công tác xóm (gia đình cán bộ nói đây có rất nhiều điểm nhân dân thắc mắc, nhưng nhân dân chưa hết đầu óc cũ, sợ uy thế không dám nói ra; nếu Đội nhận rõ chỗ này có lẽ còn nhiều mánh lới nữa).

4. Về cán bộ Đội:

Cán bộ Đội phát động giảm tô đa số không tin nhân dân, chỉ tin cậy ở chi bộ. Làm việc kém khoa học, thiếu dân chủ, không thống nhất ý chí, nên để di hại cho nhân dân nhiều quá.

Cán bộ Đội công tác xóm tôi:

- Chủ quan: có lẽ đã nghe ai nói sao đó, nên về đến xóm chỉ tìm cách trị tôi, không cần nghe cái phải, chỉ nghe cái trái. Ai phân trần cho tôi thì bác bẻ, làm người ấy phải sợ mà đành bỏ lẽ phải.

- Tả khuynh: đúng như lời của cụ CB trong báo Nhân Dân số 198.

- Bắt rễ: trên tôi đã nói rõ sự này từ xóm đến xã ai cũng biết. Anh Côn sát cánh cùng Vượng; đánh chém anh Cú, lại lấy thóc của mẹ anh, phá tình đoàn kết Việt- Hoa; cho đến lúc Đội về cũng chưa dứt hẳn... còn nhiều điều nữa, nhân dân biết cả; nhất là hồi chia quả thực, cụ Hò còn nói toạc ra rằng là nói ngoa để được nhiều hơn. Anh Lợi: nhân dân bình nghị đi dân công thì thù cả xóm; mua nhiều lúa non, còn nhiều điều hơn thế nữa có người biết.

- Xâu chuỗi: cho cả Hốt, Đỉnh, Đa, Thiệp (là những người hồi tranh đấu giảm tô đã đứng hẳn về phe địa chủ phản lại quyền lợi nhân dân) vào Nông hội, để thành sức mạnh bóp chết mình tôi là kẻ tử thù của địa chủ.

Tôi không hiểu tại sao qua những buổi bình nghị, ai cũng thấy rõ 90% nhân dân đã lạc vào trong tay của phe địa chủ; tội trạng rõ ràng, ai nghe cũng rõ. Chỉ có một mình nhà tôi không dính dáng gì mà Đội xóm vẫn không thấu rõ, lại cứ nghe bên mê mà trị bên tỉnh thì thực là tất cả một sự trái ngược. Có lẽ đúng như báo Cứu Quốc93 số 2626 đã thuật một anh công tác Đội hết sa vào tổ kén này lại sa vào tổ kén khác, không biết đâu mà lần nữa chăng?

Cái án mạc tu hữu mà ông Nhạc Phi94 phải chịu đời phong kiến còn có lẽ; ai ngờ đời nay mà chính bản thân tôi lại bị, thì tôi biết van vỉ làm sao được nữa.

Nguyễn Hữu Kha
Ấp Đồng Tâm, xã Đồng Liên,
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. 6.7.1954

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 20
    • Số lượt truy cập : 6794708