Thông tin

TỪ THÁI TỔ LÝ CÔNG UẨN ĐẾN NGỰ HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

VÀ ĐẾN MINH VƯƠNG NGUYỄN PHÚC CHU

 

TRẦN LÊ BẢO*

 

Từ Lý Thái Tổ Lý Công Uẩnđến Ngự hoàng Trần Nhân Tông tiếp đến Minh vương Nguyễn Phúc Chu là một sự tiếp nối về loại hình nhà vua gắn bó với Phật giáo. Sự tiếp nối này không chỉ ở tâm hướng Phật - tức tâm tức Phật mà còn thể hiện ở trong sự nghiệp yêu dân yêu nước và thực thi hoằng dương Phật giáo trên xứ sở Đại Việt. Những nhà “vua - phật” này chẳng những đã hoằng dương Phật giáo trên cơ sở nhu cầu vì nước vì dân của thời đại mình đang sống mà còn đưa Phật giáo đương đại thăng hoa lên những đỉnh cao mới.

1. Cội nguồn của vương quyền và thần quyền

Từ góc độ văn hóa, lịch sử, xã hội của mỗi cộng đồng, mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền là mối quan hệ tương sinh tương hỗ và đã diễn ra phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Khi nói mối quan hệ của vương quyền và thần quyền hay nói rộng hơn là quan hệ của quyền lực chính trị và tôn giáo người ta thường xét hai góc độ: một là sự chi phối giữa quyền lực tôn giáo và chính trị; hai là sự chi phối của tôn giáo trong đời sống nhân dân. Có điều, tùy theo từng giai đoạn lịch sử của mỗi dân tộc, tùy theo trình độ phát triển của xã hội và phong tục tập quán kể cả sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của mỗi dân tộc mà mối quan hệ này có thể nặng hoặc nhẹ về từng phía hoặc cân bằng quyền lực.

Mối quan hệ vương quyền và thần quyền trước hết là mối quan hệ cộng sinh. Từ xa xưa, con người đã có tín ngưỡng đa thần giáo, vai trò của tôn giáo chi phối xã hội mạnh mẽ, chẳng hạn trong xã hội Ấn Độ cổ xưa, đẳng cấp Bà la môn được xếp hàng đầu, còn địa vị vương công quý tộc chỉ được xếp ở hàng thứ hai. Khi xã hội tiền phong kiến ra đời bắt đầu có sự chuyển đổi địa vị của vương công với quyền lực chính trị lên đẳng cấp số một. Ở Trung Quốc thì ngược lại. Mặc dù vẫn có niềm tin vào đấng siêu nhiên, thấy được sức mạnh của các thần linh, nhưng với tinh thần “kính nhi viễn chi” (kính trọng trời như lực lượng thần linh, mà không gần gũi) của Khổng Tử - người sáng lập Khổng giáo, nhà vua luôn luôn giành quyền tối thượng chi phối tôn giáo, nhiều lúc sử dụng tôn giáo như những phương tiện hiệu quả để thu phục lòng người và củng cố chính trị. Mặt khác vì thấy sức mạnh vô cùng của tôn giáo nơi tâm linh của quảng đại quần chúng trong thiên hạ, các ông vua Trung Quốc đã không ngừng “tôn giáo hóa chính trị”. Họ ra sức thần thánh hóa triều đại của mình, hành vi của mình bằng tôn giáo. Các bậc đế vương độc quyền tế trời, đất, nhật, nguyệt. Nhà vua tự coi mình là “thiên tử” (con của Trời) - con một lực lượng tối cao siêu nhiên, nhận mệnh Trời để cai trị thiên hạ…

Bên cạnh đó là sự “chính trị hóa tôn giáo”, tức là biến chính trị thành một thứ tôn giáo, tạo ra sự sùng tín vô thượng đối với nhà vua. Nói như triết học Trung Quốc, trong mối quan hệ này thì chính trị là thể, tôn giáo là dụng, chính trị là mục đích mà tôn giáo là phương tiện. Các vị vua luôn đề cao vương quyền bằng cách linh thiêng hóa, thần bí hóa nó bằng những huyền thoại, sấm ngữ… mà còn tin dùng nhiều nhà sư, đạo sĩ làm quân sư trong việc trị nước cũng như an dân. Ngay cả những người muốn nắm quyền lực chính trị, để tập hợp lực lượng, tiêu biểu như lãnh tụ khởi nghĩa nông dân, vốn không được “danh chính ngôn thuận” như các đế vương, cũng dùng tôn giáo, mượn tôn giáo, giương ngọn cờ tôn giáo để lôi kéo dân chúng đi theo như: Ngũ Đẩu Mễ đạo do Trương Đạo Lăng sáng lập; Thái Bình đạo do Trương Giác sáng lập, đã phát động cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân vang dội vào cuối Đông Hán, chỉ ba bốn tháng có đến hàng vạn người đi theo…

Cả hai quan niệm trên lại được “luân lý hóa và thế tục hóa” biến thành lễ chế, quy định mọi hành vi ứng xử, định hướng cho từng cá nhân, được cả xã hội thừa nhận, coi trọng, bảo lưu qua nhiều thế hệ, trải qua hàng ngàn năm thâm nhập đến mọi ngõ nghách của cuộc sống xã hội, thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng, khiến nó trở thành một tín điều bất khả xâm phạm, không ai có thể vượt ra được.

Tuy nhiên, mối quan hệ vương quyền và thần quyền tùy thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán và đặc thù tôn giáo của mỗi dân tộc mà có lúc khinh trọng khác nhau. Với các nước Tây Á thì tôn giáo chi phối lấn át vương quyền, với Trung Quốc thì vương quyền chi phối tôn giáo. Ở Việt Nam, cụ thể mối quan hệ giữa vương quyền và Phật giáo là dung hòa và tương hỗ trong xu thế vận động.

2. Hệ thống đạo lý và quan hệ vương quyền - thần quyền.

Mối quan hệ này đã tạo thành hệ thống đạo lý cơ bản để xây dựng quốc gia qua các thời đại và được thể hiện thành ba mối quan hệ như sau:

a. Đạo đức vương quyền mang tinh thần Phật: đề cao sứ mạng chính đáng của vương quyền, dựa trên bốn điều kiện: được thần dân tin yêu, trao cho đế vị, chỉ đạo việc nước với lòng nhân từ, tức là “có đạo”, làm nước giàu dân mạnh, coi quyền lợi dân gắn với quyền lợi vua.

b. Đạo đức về nghĩa vụ hỗ tương giữa người với người mang tinh thần Phật: giữa vua nhân và tôi trung, cha nghĩa và con hiếu, chồng tín và vợ trinh; thực hành trên cơ sở ngũ giới và thập thiện.

c. Đạo đức yêu nước mang tinh thần Phật: Giữ gìn giang sơn gấm vóc, bằng cách  trị nước với tình thương (phổ từ, phổ ái) hay bằng cách bảo vệ nền văn hóa dân tộc; lo lắng về thảm cảnh mất nước, quyết tâm giành lại đất nước từ trong tay giặc với tâm bồ tát.

Gồm cả các thành tố nói trên, như đạo đức vương quyền, đạo đức ái quốc, để có một quốc gia độc lập, chống lại được ngoại xâm, bảo vệ quyền dân tộc tự quyết trong bang giao với các nước.

3. Mối quan hệ vương quyền và Phật giáo trong lịch sử xã hội Việt Nam

3.1. Lịch sử du nhập Phật giáo vào Việt Nam có thể chia làm 3 thời kỳ chính: Thời kỳ mười thế kỷ đầu công nguyên; Thời kỳ độc lập tự chủ (938) qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đến triều Nguyễn; Thời kỳ Pháp thuộc (1858) và sau 1954.

Thời kỳ mười thế kỷ đầu công nguyên: Phật giáo được xác định là du nhập vào nước ta đầu công nguyên bằng đường biển và đường bộ từ Ấn Độ vào Giao Chỉ và Chăm Pa. Dòng thiền đầu tiên Tì-ni-đa-lưu-chi (do ngài Tì-ni-đa-lưu-chi người Ấn Độ sáng lập) xuất hiện thời thuộc Tùy. Thời thuộc Đường xuất hiện dòng thiền thứ hai là Vô Ngôn Thông (do ngài Vô Ngôn Thông người Trung Quốc sáng lập), với tư tưởng “Tức tâm tức Phật”. Điểm nổi bật của dòng thiền này là sự xuất hiện hình thức Cư sĩ - Thiền sư.

Thời kỳ độc lập tự chủ, trải qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đến triều Nguyễn. Nhà Đinh và Tiền Lê đã đưa Phật giáo lên thành “quốc giáo” với chức tăng thống và thiền sư có vai trò cố vấn cho các nhà vua. Thời nhà Lý, Phật giáo phát triển cực thịnh, là quốc giáo và xuất hiện dòng thiền thứ ba là Thảo Đường (do ngài Thảo Đường người Ấn Độ sáng lập). Điểm nổi bật của dòng thiền này là vai trò của giới cư sĩ được chính thức khẳng định. Cả ba dòng thiền và Phật giáo đã hiện diện ở giai đoạn này và có xu hướng nhập thế mạnh mẽ. Nhà Trần là triều đại tiếp nối của Phật giáo với vai trò nổi bật của Trần Nhân Tông - người sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tư tưởng của dòng thiền này là sự phát triển cao của quan niệm “Tức tâm tức Phật”, với quan niệm và cách thức tu tập “cư trần lạc đạo” đã hoằng dương Phật giáo Việt lên một bước mới. Hồ Quý Ly đã ra sức phát triển Nho giáo vào cuối thế kỷ XIV và nhà Minh xâm lược Đại Việt vào đầu thế kỷ XV. Thời Hậu Lê, chế độ phong kiến đã thuần thục ở Đại Việt, Nho giáo dần thay thế Phật giáo và Phật giáo từ cung đình chuyển dần vào dân gian; giữa nhà Hậu Lê nước Đại Việt bị chia cắt thành xứ Đàng Ngoài (vua Lê - chúa Trịnh) và xứ Đàng Trong (chúa Nguyễn). Ở Đàng Trong Phật giáo vẫn phát triển mạnh trên cơ sở một nền lý học mới và nhờ vai trò của chúa Nguyễn Phúc Chu người nên được ví là Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử Phật giáo. Nền lý học mới này là dòng Tào Động và dòng Lâm Tế. Xứ Đàng Ngoài vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Sự định hướng mô hình nhà nước theo hình thức chuyên chế lấy Nho giáo làm nền tảng là mô hình theo đuổi của các hoàng đế trong lịch sử Trung Hoa. Sự định hướng mô hình nhà nước theo Nho giáo nhưng nền tảng tư tưởng là Phật giáo là định hướng vận động của xã hội Đại Việt tiêu biểu là thời  Lý - Trần, khởi đầu từ thời Đinh - Tiền Lê. Lịch sử nhà nước Việt Nam thời phong kiến là lịch sử chuyển giao từ mô hình nhà nước theo Nho giáo nhưng nền tảng tư tưởng là Phật giáo sang mô hình nhà nước theo hình thức chuyên chế lấy Nho giáo làm nền tảng. Đó là quá trình Nho giáo hóa dẫn đến chuyên chế hóa, tập quyền hóa. Nếu như sự chuyển hóa mô hình nhà nước theo nền chuyên chế lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng, thì mọi quyền lực sẽ được tăng cường và tập trung vào tay hoàng đế ngày càng cao; ngược lại xác lập mô hình nhà nước theo Nho giáo nhưng lấy Phật giáo làm nền tảng tư tưởng với mục tiêu, định hướng và tính chất của Phật giáo, sẽ làm chậm lại tiến trình tập quyền, thần quyền hóa vương quyền.

3.2. Trong điều kiện xã hội Việt Nam thời Lý - Trần sự lựa chọn mô hình nhà nước theo Nho giáo nhưng lấy nền tảng tư tưởng là Phật giáo lại là một sự chọn lựa sáng suốt và có tính chiến lược bởi những lí do chủ yếu sau:

* Thứ nhất: Xét về ý thức hệ, sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, hơn lúc nào hết tinh thần tự chủ, tự cường, yêu thương đoàn kết dân tộc cần được đề cao.

Vào thế kỷ thứ X ở Đại Việt đã có đầy đủ ba hệ tư tưởng Phật-Đạo-Nho. Nho và Đạo có nguồn gốc từ Trung Hoa, Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ. Nho và Đạo du nhập vào Đại Việt bằng con đường xâm lược, còn Phật du nhập bằng con đường văn hóa. Như vậy vào thời kỳ đầu độc lập tự chủ của đất nước, cả ba hệ tư tưởng đều đã du nhập và bắt rễ vào nước ta. Nhưng vì sao những ông vua triều đại đầu tiên này lại không chọn Nho giáo hay Đạo giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo cho đất nước sau ngàn năm đô hộ tăm tối và sau những binh biến nội chiến, mà lại chọn Phật giáo.

Trước hết, Nho giáo là học thuyết “chính danh” - quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, với “Tam cương ngũ thường” được các hoàng đế Trung Hoa dùng để thiết lập chế độ chính trị tập quyền khắc nghiệt. Như vậy tiếp nhận Nho giáo trong lúc thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phương Bắc vẫn là “lệ thuộc tư tưởng”. Lại thêm Đạo giáo du nhập vào Việt Nam ảnh hưởng còn mờ nhạt, với triết lý “vô vi”, “nhàn” đều không phù hợp với yêu cầu tư tưởng của thời đại mới.

Trong khi đó Phật giáo là hệ tư tưởng động viên tinh thần tự chủ, tự trách nhiệm với giáo lý tự tu tập mới chứng ngộ không ai khác có thể thay mình: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm này rất phù hợp với tinh thần một dân tộc một đất nước vừa thoát khỏi ngàn năm đô hộ, ngàn năm lệ thuộc.

* Thứ hai: Điều kiện xã hội sau những chiến tranh nội chiến và biến loạn, huynh đệ tương tàn (Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha tiếm ngôi, loạn 12 sứ quân… hơn lúc nào hết cần có một triết lý mới để thu phục nhân tâm. Đó là tinh thần bao dung, tha thứ từ bi hỷ xả, gạt bỏ quá khứ đau thương cùng hướng về một tương lai tốt đẹp. Mặc dù Nho giáo có đề cao chữ “Nhân”, nhưng lòng yêu thương con người lại bị lệ thuộc vào học thuyết “chính danh”, lại sống trong thời loạn ly, tranh đoạt bởi lòng tham thì chữ “Nhân” khó có thể phân biệt đúng sai và cũng khó có chỗ đứng. Trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Phật giáo là đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Phật giáo luôn đề cao tấm lòng từ bi, và tinh thần hỷ xả, không nhìn lại quá khứ miễn là tâm hướng Phật. Thêm nữa Phật giáo không chỉ hướng về số đông dân chúng, đem lại tinh thần dân chủ cho số đông, mà tiêu chuẩn chân lý đúng sai của Phật giáo lại dựa vào quyền lợi của số đông, hạnh phúc của cộng đồng, của quốc gia dân tộc. Hành vi trao vương vị của dòng họ Đinh cho dòng họ Lê của Thái hậu Dương Vân Nga là một hành vi đúng đắn và sáng suốt, rất đáng được ngợi ca, đúng theo tinh thần Phật giáo là vì lợi ích dân tộc, hạnh phúc của muôn dân, trước họa xâm lăng của nhà Tống. Mặc dù hành vi này dưới góc độ đạo đức Nho giáo là không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phật giáo được các vị vua thời đầu Đại Việt cũng như dân chúng hưởng ứng cũng như là một tất yếu lịch sử.

* Thứ ba: Xét trong mối tương quan về quyền lực giữa vương quyền và thần quyền, trong khi mới xây dựng, chính quyền còn non yếu như triều Đinh, Tiền Lê, Lý, nỗi lo của người cầm quyền là các thế lực chống đối, nhòm ngó ngôi vị. Tầng lớp Nho sĩ hay Đạo sĩ dù sao cũng được nuôi dưỡng trong cửa Khổng sân Trình, việc mang ý thức hệ của người phương Bắc, ngưỡng vọng về phương Bắc cũng là điều dễ hiểu và từ ngưỡng vọng đi tới thần phục cũng không bao xa. Thêm nữa, Nho giáo luôn khuyến khích con người nhập thế: lập thân, lập đức, lập ngôn. Vì vậy, tầng lớp Nho sĩ vốn có trình độ, được tu dưỡng đạo đức nên luôn khao khát công danh, sự nghiệp kể cả làm vua. Điều này khiến cho các nhà vua không thể không đề phòng. Trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam có không ít những bài học dẫn đến họa sát thân của những trí thức Nho học tích cực phò tá vương quyền khi đạt đến thành công dựng nghiệp, theo quy luật “cao điểu tận lương cung tàng, thố tử tận tẩu cẩu phanh” (chim trên trời cao hết cung tốt cất vào kho, thỏ hết thì chó săn bị mổ thịt). Tuy nhiên điều này với Phật giáo lại khác. Các nhà sư trước hết là người học rộng biết nhiều. Họ không chỉ giỏi triết lý đạo Phật mà giỏi cả triết lý của đạo Nho và đạo Lão, họ sống theo phương châm “hành đạo - cứu đời”, sẵn sàng tham gia triều chính như một cố vấn chứ không hề màng danh lợi và đam mê quyền lực. Khi chính quyền vững vàng, vương quyền đã chắc chắn, họ tự nguyện rút lui về núi ở ẩn. Mặt khác, tư tưởng của họ cũng không câu nệ ngu trung như trí thức Nho giáo chỉ thờ một vua. Vị vua nào ngu tối, tàn sát dân lành, họ sẵn sàng tìm phục vụ vị vua sáng suốt hơn. Vì vậy, vương quyền có lợi khi dựa vào trí tuệ và đạo đức cứu đời của Phật giáo để củng cố quyền lực và thu phục nhân tâm. Ngược lại, Phật giáo tham gia vào công việc của vương quyền cũng là để “cố vấn” cho nhà vua chứ không hề là mối đe dọa đối với vương quyền.

Thêm nữa, thời kỳ đầu của nước Đại Việt, khi chưa tổ chức thi tuyển nhân tài theo tiêu chí Nho giáo, thì vai trò của các tu sĩ Phật giáo luôn được đề cao và các vị vua lựa chọn Phật giáo làm chủ lưu, thậm chí là “quốc giáo”, cũng là sự lựa chọn sáng suốt. Lịch sử Việt Nam đã minh chứng sự lựa chọn này là một quyết định có tính chiến lược trong việc hoạch định mô hình nhà nước vừa cụ thể vừa dài lâu. Rõ ràng trạng thái khoan hòa, dung hợp của Phật giáo lại đem lại sức mạnh thống nhất và tổng hợp của toàn dân tộc, cùng với sự sáng tạo mang đậm sắc màu Phật giáo. Điều quan trọng là sức mạnh mô hình nhà nước này có được không phải từ quyền uy của một ông vua nắm giữ pháp quyền và thần quyền với một hệ thống quan lại đại diện nhà vua cai trị từ trên xuống dưới, mà là sức mạnh tổng hợp và tương hỗ giữa vua và các thế lực thần linh, giữa Phật giáo và tôn giáo bản địa để cùng hướng đến ổn định xã hội, bảo vệ giang sơn.

3.3. Đến thời Hậu Lê - Nguyễn, việc xây dựng xã hội chuyên chế tập quyền theo mô hình Nho giáo là xu thế chung của thời đại nhưng cũng vẫn phải dựa vào lá cờ của Phật giáo, đặc biệt triều đại nhà Nguyễn vì những lí do cơ bản sau:

* Các chúa nhà Nguyễn với sứ mệnh trấn giữ và mở cõi ở Đàng Trong, với bài học nhãn tiền về cuộc khủng hoảng của Nho giáo Đàng Ngoài, một mặt vẫn phải xây dựng chính quyền phong kiến chuyên chế, mặt khác cần xây dựng nền tảng văn hóa tâm linh, đạo đức cho vùng đất mới và Phật giáo được lựa chọn như một giải pháp tối ưu. Điều này vừa đáp ứng được việc củng cố chính quyền, vừa phủ dụ các dân tộc bản địa, kể cả người Hoa nhập cư, cũng như lưu dân từ Đàng Ngoài dấn thân vào miền đất lạ, mà tôn giáo phổ biến của các cộng đồng ở đây là hỗn dung tôn giáo, trong đó Phật giáo có ảnh hưởng lớn. Rõ ràng từ cuối thế kỷ 17 đến hết thế kỷ 17I mối quan hệ của vương quyền triều Nguyễn với Phật giáo và lưu dân Đàng Trong có sự gắn bó đồng thuận đã tạo nên sức mạnh cho việc thống nhất lãnh thổ, xã hội và nền tảng văn hóa vùng Nam bộ.

* Trong hành trang của lưu dân mở cõi, đạo Phật đã đáp ứng được cả về mặt tâm linh lẫn quan niệm và lối sống cho họ. Sự dấn thân của họ cho cuộc khai phá miền đất mới là cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm đầy bất trắc của thiên nhiên và xã hội, thì quan niệm duyên sinh, vô thường, và phương thức tùy duyên bất biến đã đem lại cho lưu dân nơi đây một quan niệm một thái độ ứng xử đúng mực, không bi quan trước hoàn cảnh mà bản thân mỗi con người không được quyền chọn lựa đối với nhiều điều luôn xảy ra ngoài ý muốn.

Thêm nữa vùng đất Nam bộ lại là vùng đất của nhiều dân tộc cộng cư, với sự hỗn dung của tín ngưỡng và tôn giáo. Cư dân nơi đây thờ Phật, nhưng cũng tin thần linh và sùng bái cả các Bà Mẹ Xứ sở. Như vậy, Phật giáo Đàng Trong một mặt phải xử lý mối quan hệ với hệ tư tưởng tam giáo Nho-Đạo-Phật vốn gắn bó với người Việt từ khi có nền văn hiến, mặt khác lại phải đi sâu, thấm nhuần hài hòa vào tín ngưỡng và tôn giáo dân gian hướng con người đến với chính pháp và dân tộc. 

* Một yếu tố cũng rất quan trọng nữa là điều kiện kinh tế xã hội của triều Nguyễn đã thúc đẩy con người phải hướng về Phật giáo, tìm cứu cánh từ Phật giáo. Khi nắm quyền cai trị đất nước, một số vua đầu triều Nguyễn có chấn hưng được đất nước. Nhưng là triều đại cuối cùng của chế phong kiến Việt Nam, chế độ phong kiến nhà Nguyễn luôn bộc lộ những dấu hiệu suy tàn không thể cưỡng lại được, từ sự suy tàn của ý thức hệ thông qua chính quyền chuyên chế khắc nghiệt, đến sai lầm về chính sách đối nội và đối ngoại, dẫn đến nền kinh tế suy sụp, chế độ lao dịch, tô thuế nặng nề đến nỗi dân sống không nổi phải vùng dậy đòi quyền sống khắp nơi trong cả nước. Lại thêm dịch bệnh diễn ra cướp đi hằng 40, 50 vạn người vào những năm 1826, 1849. 1850 ở Nam bộ. Lúc này triết lý tùy duyênnhập thế của đạo Phật đã trở thành điểm tựa cho mọi giá trị của sự sống nơi đây. Và chính những con người đi mở cõi gắn bó với mảnh đất mới, với cư dân mới, điều kiện sống mới, mới có thể hiểu rõ sự lựa chọn Phật giáo, trong khi Nho giáo đã đổ vỡ, Đạo giáo chỉ còn là đạo phù thủy, đó là sự lựa chọn phù hợp nhất với con đường chính pháp, xã hội và dân tộc.

3.4. Mặc dù là hai mô hình xã hội kế tiếp nhau trong lịch sử Việt Nam, song có thể thấy sức mạnh của thời đại Lý - Trần không giống với sức mạnh của thời đại Hậu Lê - Nguyễn. Một bên là sức mạnh của nền “quân chủ Phật giáo” có được từ trạng thái nhân ái khoan dung. Một bên là sức mạnh của một nền “quân chủ Nho giáo” chuyên chế tập quyền được tổ chức quy mô và chặt chẽ song vẫn không hoàn toàn đoạn tuyệt với Phật giáo. Tuy nhiên nền chuyên chế này khi đã đạt đến đỉnh cao cũng là lúc kết thúc khi nó phải đối mặt với khoa học kỹ thuật phương Tây cuối thế kỷ XIX.

Có thể nói rằng, trong suốt 20 thế kỷ, Phật giáo đã có một vai trò quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc, nhất là Phật giáo Lý - Trần đã thể hiện trí tuệ và tấm lòng từ bi sâu sắc bằng sự nhập thế sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý - Trần, Phật giáo đã trở thành “quốc giáo”. Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý - Trần đã chinh phục trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một cuộc sống hòa hợp, giản dị và bốn bể thanh bình, đồng thời huy động được sức mạnh thống nhất và tổng hợp của toàn dân tộc mỗi khi có kẻ thù xâm lược. Vì thế cả hai triều đại Lý - Trần đều tồn tại khá lâu: triều Lý 216 năm (1009 - 1225) và triều Trần 174 năm (1226 - 1400). Có thể nói đây là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Nói như cố GS. Trần Quốc Vượng: “nền quân chủ Đại Việt thời Đinh - Lê - Lý -Trần (968-1400) là nền quân chủ Phật giáo”.

Nhìn vào lịch sử Việt Nam, có không ít những anh hùng chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền quốc gia, hết sức tiêu biểu cho mối quan hệ vương quyền và Phật giáo như: Lý Nam Đế (503 - 548), một Phật tử do nhà chùa giáo dục, đã lãnh đạo quân dân đánh thắng quân Lương năm 544 và lập ra nhà Tiền Lý; Ngô Vương Quyền (898 - 944) cũng là một Phật tử, đại thắng quân Nam Hán năm 938; Lê Đại Hành (941 - 1005), một Phật tử, đại thắng quân Tống lần thứ nhất năm 981; cư sĩ Lý Thường Kiệt (1019 -1105) đại thắng quân Tống lần thứ hai, 1077; vua Trần Thái Tông (1218 - 1277), thiền sư tại gia, đại thắng quân Nguyên lần thứ nhất, 1258; vua Trần Nhân Tông (1258 -1308), thiền sư tại gia, đại thắng quân Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288); hai lần đại thắng này, công đầu là thuộc danh tướng Trần Hưng Đạo, cũng là thiền sư tại gia; Lê Thái Tổ (1385 - 1433), mười năm kháng Minh, với sự cố vấn của Nguyễn Trãi, một đệ tử của sư Đạo Thiên; và vua Quang Trung, đại thắng quân Thanh, 1789, với sự cố vấn của Ngô Thờì Nhiệm, sau này là Thiền sư Hải Lượng…

4. Sự dung hợp vai trò nhà vua và nhà sư tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, có nhiều người đi theo đạo Phật, nhiều nhà sư đã thành chính quả. Tuy nhiên, trong số những người này có một loại hình kết hợp giữa nhà vua gắn liền cuộc đời, tư tưởng với Phật giáo. Những vị vua này là những bậc hiền tài nhân đức, đem lại sự vững bền thịnh vượng cho đất nước và hạnh phúc cho muôn dân. Triều Lý, Lý Thái Tổ từ một người được nhà sư nuôi dưỡng thành vua mở đầu vương triều Lý. Triều Trần đã từng có Ngự hoàng Trần Nhân Tông từ vua thành sư - người khai sáng Thiền phái trúc Lâm Yên Tử. Sau đó là Minh Vương chúa Nguyễn Phúc Chu tín sùng đạo Phật xây dựng thời đại hưng thịnh, có công bình định mở mang bờ cõi Đàng Trong gần như lãnh thổ Việt Nam hiện nay.   

4.1. Xét từ tâm thức văn hóa dân tộc, cả ba vị vua này đều đã được tâm thức dân gian chuẩn bị đầy đủ cho mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền.

Cả ba vị này đều có những huyền thoại được ghi chép đầy đủ báo trước mối quan hệ nhân duyên với Phật giáo:

Lý Công Uẩn chẳng những ra đời kỳ lạ mà việc ông lên làm vua cũng có cả sấm ký: “Thái Tổ hoàng đế, họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm vua... là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã có lượng đế vương” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển II, Kỷ nhà Lý, Thái Tổ hoàng đế, tr. 240).

Đại Việt sử ký tiền biên, bản kỷ, quyển II, trang 192 chép: “Theo bài Tiêu Sơn tự ký thì Thái hậu cảm thụ tinh con khỉ bạch mà sinh ra vua ở chùa này, sư Vạn Hạnh đưa về nuôi. Theo Ngoại truyện thì: mẹ vua năm 20 tuổi, do nghèo túng lam lũ không có chồng, nương tựa vào vị sa môn già ở chùa Ứng Thiên cho làm việc nấu bếp, đêm đêm dậy đồ xôi. Một hôm bà ngủ quên, lửa tắt, sa môn vô tình chạm phải, giật mình tỉnh dậy thấy lòng xáo trộn rồi có thai, bị sa môn đuổi đi, bà vào chùa khác, đủ tháng thì sinh ra vua... Vua lúc bé thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường, khi bảy tuổi Khánh Văn gửi nhờ sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ dạy cho học”.

Ngự Hoàng Trần Nhân Tông ra đời như là một vị Phật đầu thai gắn liền huyền sử. Tam Tổ thực lục ghi rằng: Trần Nhân Tông “vừa sinh ra màu da như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Vai phải vua có nốt ruồi đen như hạt đậu lớn, người biết xem tướng nói đứa bé này ngày sau có thể gánh vác việc lớn”. Chẳng phải huyền thoại này đã nói lên sự ra đời của Trần Nhân Tông là sự đầu thai của Phật Tổ như mọi Phật thoại khác, và là người sẽ sáng lập trường phái Phật giáo Việt Nam.

Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu cũng được sách Đại Nam thực lục tiền biên ghi lại rằng: “Mẹ của Quốc chúa trước đây được dâng vào hậu triều, sau đó được tuyển làm cung tần. Đến khi có thai, ở nơi phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vây bọc xung quanh, giữa một luồng ánh sáng rực trời tỏa ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở. Người thức giả cho là điềm tốt. Đến lúc sinh thì được một trai, ánh sáng tỏa rực khắp nhà, đấy chính là Hiển tông Hiếu Minh Hoàng đế”. Chúa Nguyễn Phúc Chu là người có tư chất thông minh từ thuở nhỏ với tài kiêm văn võ…

4.2. Những điều kiện xã hội cụ thể thúc đẩy mối quan hệ giữa nhà vua và nhà sư.

Mỗi con người đều là con đẻ của một hoàn cảnh nhất định. Điều này quyết định cả quan niệm sống lẫn lối sống và con đường sống của mỗi người.

a. Lý Công Uẩn (974 - 1028) trước khi lên ngôi, đã được nhà sư Vạn Hạnh đào luyện theo tinh thần Phật giáo và con đường đi lên của Lý Công Uẩn vẫn là con đường của các anh hùng dựng nghiệp bằng vũ lực trước đó như Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh… Những vị vua này luôn cần có sự giúp đỡ của thần quyền lúc này là Phật giáo thì mới có thể mở nghiệp thành công. Nói cách khác, việc Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế chính là sự thắng lợi thịnh trị của Phật giáo Việt Nam. Đó như là một tất yếu lịch sử phù hợp muốn khép lại thời đại nô lệ đau thương, chiến tranh đẫm máu, hướng về xã hội yên ổn thái bình, phù hợp cả với lòng dân và việc ổn định để xây dựng thiết chế chính trị vững chắc để có thể đối nội và đối ngoại tốt nhất. Vị Thái tổ mở đầu triều đại nhà Lý này đã xây dựng được chế độ quân chủ Phật giáo vững chắc. Điều này không thể không nói tới vai trò của Phật giáo với vương quyền của Thái tổ Lý Công Uẩn. Tiêu biểu cho mối quan hệ này là quan hệ giữa thiền sư Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn là sản phẩm của chính quá trình vận động và vươn lên của Phật giáo. Thiền sư Vạn Hạnh đã chuẩn bị mọi điều kiện để Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế. Thiền sư là người truyền đạo cũng là người đưa Lý Công Uẩn vào triều để chuẩn bị nắm quyền điều khiển đất nước. Rõ ràng, Lý Công Uẩn là sản phẩm của chính quá trình vận động và vươn lên của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo gắn liền với chính trị.    Quyền uy thế tục và quyền uy hành động của Vạn Hạnh cũng như của các thiền sư trong thời đại này thể hiện rõ sự vươn lên của Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị, văn hóa trong triều đại nhà Lý.

b. Khác với Lý Công Uẩn, Trần Nhân Tông (ở ngôi từ 1279 đến 1293) sinh ra là để làm vua, dòng dõi nhà vua, nên Trần Nhân Tông đã được đào luyện thành một minh quân gồm đủ tài văn võ, tư tưởng có cả tinh hoa của Nho-Phật-Đạo. Cũng giống như Lý Công Uẩn, vua Trần Nhân Tông được tiếp nhận triết lý, tinh thần và không khí Phật giáo còn thấm đẫm trong nền tảng tinh thần văn hóa tâm linh và nhân văn thời đại. Ngài đã có duyên kế thừa và phát triển tư tưởng Thiền từ Tùy tục của Thường Chiếu, Biện tâm của Trần Thái Tông tới Hòa quang đồng trần của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính những triết lý này sau này được Trần Nhân Tông phát triển thành tư tưởng tùy duyêncư trần lạc đạo. Chính ngài là người chứng ngộ cao nhất và điển hình nhất của Thiền tông Việt Nam. Nhập thế lãnh đạo toàn dân chống giặc Nguyên Mông để cứu khổ cho sinh linh Đại Việt cũng là tinh thần cứu thế của Đức Phật. Xây dựng một triều đại thịnh trị lấy dân làm gốc cũng vì hạnh phúc muôn dân Đại Việt và rũ bỏ mọi quyền uy, mọi vật dục vào núi tu luyện để trở thành Phật, tìm đường cứu độ chúng sinh mê đắm trong tham sâm si, chỉ ra con đường hướng về sự an vui thanh thản nơi tâm linh mỗi con dân Đại Việt cũng chính là tìm lại sự yên ổn cho xã hội và dẫn đến sự phát triển của đất nước. Từ bỏ vương quyền trở thành Giác hoàng Điều ngự, Tổ đứng đầu Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam là sự chứng ngộ sáng suốt, là lựa chọn điển hình và cao cả của Trần Nhân Tông trong việc xử lý mối quan hệ giữa vai trò của một nàh vua và một bậc thầy Phật pháp: nhà vua thành Phật trong điều kiện thực tiễn của thời đại. Theo gương ngài, nhiều vị vua đời Trần đã biết lui về đúng lúc để truyền ngôi cho người kế vị trẻ lãnh đạo đất nước.

c. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) là vị chúa thứ 6 ở Đàng Trong, là một trong những vị chúa hiền tài. Giống như Trần Nhân Tông, ông cũng sinh ra để làm người đứng đầu và được chuẩn bị đầy đủ để thành một minh quân. Chúa Nguyễn Phúc Chu được nối nghiệp chúa khá sớm, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể với việc mở đất Đàng Trong đầy gian khổ, cần xây dựng văn hóa tinh thần để tập hợp và phổ độ cho sinh dân nơi đây, với kiến thức rộng rãi và nhãn quan rộng mở, chúa đã áp dụng nhiều chính sách chiêu hiền đãi sĩ, chịu nghe lời nói phải, gạt bỏ xa hoa lãng phí, giảm nhẹ thuế má phu dịch, bớt việc hình ngục, trăm họ ai ai cũng được nhờ. Chúa một mặt phải tổ chức lại chính quyền trung ương về mọi mặt, mặt khác lại phải lựa chọn Phật giáo làm ngọn cờ để tập hợp sinh dân Đàng Trong. Chính điều này đã đem lại sự vững bền và phát triển quốc gia dưới thời kỳ chúa cai quản.

Trước chúa Nguyễn Phúc Chu, ở Đàng Trong các chúa đời trước duy trì khuynh hướng “bế quan tỏa cảng”. Nhưng đến ông, chúa Nguyễn Phúc Chu có tầm nhìn xa trông rộng, đã cho phép nhiều thương thuyền người nước ngoài như Tây phương, Trung Quốc, Nhật Bản ra vào buôn bán, trao đổi hàng hóa thường xuyên. Chúa lại biết dùng người Tây Âu để huấn luyện binh pháp và kỹ thuật quân đội, tiếp thu khoa học và kỹ thuật mới. Vì vậy, quân đội cũng đã được tổ chức thành một lực lượng hùng mạnh nhờ thường xuyên thao luyện. Chúa cũng giỏi điều khiển các tướng tài như Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Đình Ân trong các cuộc mở mang bờ cõi, bao dung những người thần phục như Hoàng Tiến, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu để khai khẩn đất hoang. Mặt khác, chúa cũng cải cách cơ chế tổ chức chính quyền trung ương, định lại quan tước, phẩm hàm; Chúa quan tâm đến việc đào tạo nhân tài và tổ chức thi cử. Đặc biệt, chúa đã đặt ra kỳ thi Văn chức và thi Tam ty để thường xuyên kiểm tra khả năng của các quan lại đang tại chức. Rõ ràng với năng lực của bậc minh quân, chúa Nguyễn Phúc Chu đã có đường lối đúng trong việc xây dựng chính quyền phong kiến chuyên chế vững mạnh, có công lao mở mang bờ cõi, đối nội và đối ngoại có hiệu quả. Thành công này có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân đó là vai trò của Phật giáo. Trước hết, chúa là người hâm mộ đạo Phật và có đạo hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân. Chúa cũng thấy được sức mạnh của triết lý Phật giáo trong việc định hướng quan niệm và lối sống cho sinh dân còn rất khốn khổ khi mở cõi Đàng Trong, Phật giáo cũng dạy con người biết giải thoát và thích ứng, biết bao dung, từ bi hỉ xả hướng thiện… đối với con người. Vì vậy, chúa cũng cho xây dựng và tu bổ nhiều chùa chiền (như chùa Thiên Mụ - Huế) đúc chuông, tạc tượng ở nhiều nơi. Trong thời gian trị vì, chúa cho mời nhà sư Thạch Liêm Thích Đại Sán từ Trung Hoa sang để chấn chỉnh Đạo Phật ở Đàng Trong, khi về nước nhà sư có viết sách Hải ngoại kỷ sự hết lời ca ngợi chúa.

Thông qua sách Hải ngoại kỷ sự cũng có thể thấy phong trào Phật giáo dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu đã được xiển dương mạnh mẽ. Theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, Thạch Liêm Đại Sán thuộc phái Tào Động đến suốt một dải Hội An và sâu hơn để hoằng dương Phật giáo, đệ tử có tới hằng ngàn người từ tháng giêng năm 1695 đến tháng sáu năm 1696. Mục đích của Thạch Liêm Đại Sán đến Đại Việt không chỉ là do nhu cầu về tôn giáo của chính quyền nhà Nguyễn mà còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn của các thương nhân người Hoa ở Đàng Trong. 

Thạch Liêm Đại Sán cho rằng cơ sở văn hóa Nho giáo và Phật giáo đều có thể phát huy tác dụng vô cùng quan trọng và có chức năng tích cực trong việc xây dựng mẫu hình đạo đức luân lý nhân cách. Nho giáo và Phật giáo vừa có vai trò là những tri thức điển hình để hình thành nhân cách lại vừa là động lực để nâng cao dân trí, phát triển quốc gia.

Mặt khác do không hợp khí hậu nên Thạch Liêm Đại Sán luôn bị bệnh đau bụng giày vò. Trong thời gian Thạch Liêm Đại Sán dưỡng bệnh ở chùa Di Đà và chùa Thiên Mụ (Thuận Hóa) đệ tử Phật giáo và thương nhân người Hoa cũng như gia đình chúa, quan lại thăm viếng mà hai ngôi chùa này càng trở nên nổi tiếng.

Trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu, triều đình vừa phải tổ chức chiến tranh cầm cự với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài lại chuẩn bị chiến tranh bình định Chiêm Thành ở phía trong. Vì vậy, nam thanh niên lúc bấy giờ không đi lính cũng đi tu. Sức sản xuất chỉ còn trông chờ vào phụ nữ. Do đó, khi thấy số lượng phụ nữ Đại Việt nhiều hơn nam giới ở Thuận Hóa, Thạch Liêm Đại Sán cho rằng luân lý Trung Hoa khắc nghiệt trói buộc phụ nữ không ra khỏi nhà, còn phụ nữ Đại Việt mà ông gặp nhiều hơn nam giới là thứ phong tục “dâm mỹ” chưa có sự giáo hóa của thánh nhân. Điều nhận xét của Thạch Liêm cho thấy Phật giáo Đàng Trong phát triển sâu rộng tới mức nhiều nam thanh niên đã tự giác xuống tóc đi tu nếu không đi lính. Nhưng nhận xét phong tục “dâm mỹ” đối với phụ nữ Đại Việt lại là một nhật xét sai lầm của người tự nhận là văn minh nước lớn mà không hiểu văn hóa Đại Việt vốn vẫn tôn trọng phụ nữ. Không phải cái gì liên quan đến phụ nữ cũng là “dâm”, cho dù là “dâm mỹ”. Những Bà Trưng, Bà Triệu ở xứ sở Đại Việt chống lại cả hoàng đế Trung Hoa đâu có “dâm” mà chỉ có “mỹ” và “hùng” thôi. Mặt khác, giáo hóa của thánh nhân có phải điều nào cũng đúng đâu. Duy lời dạy của đức Khổng Tử, con người phải Trung và Hiếu cũng sản sinh ra hàng ngàn lớp người chỉ biết phục tùng, đã bóp nghẹt tự do của muôn vạn cá nhân trong lịch sử; chưa kể luân lý lễ giáo phong kiến Trung Hoa vô cùng khắc nghiệt đối với phụ nữ. Đến nhà văn Lỗ Tấn sống trên đất nước Khổng Tử cũng phải phản đối lễ giáo phong kiến và tố cáo xã hội phong kiến là “xã hội ăn thịt người”. Đấy là chưa nói Phật Bà Quan Âm trong Phật thoại cũng nhiều lần hóa thành “kỹ nữ” để giáo hóa chúng sinh cũng là “dâm mỹ” ư?

Mặc dù vậy cũng có thể khẳng định thế kỷ 17, Phật giáo Đại Việt có sự phục hưng mạnh mẽ với việc hoằng dương Phật pháp, xây dựng chùa chiền miếu mạo, thấm sâu vào đời sống tâm linh cộng đồng các dân tộc ở Đại Việt, đặc biệt là ở Đàng Trong. Phật giáo vẫn được nhà vua lựa chọn như một yếu tố quan trọng phù trợ chính quyền để định hướng xã hội, định hướng nhân tâm, dung hòa bớt những mâu thuẫn trong cuộc sống.

Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thừa kế được phong trào Phật giáo này để xây dựng chính quyền chuyên chế phong kiến và ông đã đạt được nhiều thành tựu trong 34 năm cầm quyền. Chúa đã đóng góp nhiều công lao vào việc mở mang đất nước; cũng như thực hiện nhiều tiến bộ về xã hội ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 17I. Chúa đã ứng xử hài hòa giữa quyền lực chính trị của nhà vua và vai trò của Phật giáo. Vì vậy, chúa được tôn là Minh Vương. Chí hướng và tâm nguyện hướng Phật của chúa được  thể  hiện trong một bài “minh” do chúa viết trên chiếc chuông đồng tại chùa Thiên Mụ (Thuận Hóa) đúc năm 1710: “Duy nguyện phong điều vũ thuận, quốc thái dân an, pháp giới chúng sinh đồng viên chủng trí”(Nguyện cầu gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, phổ độ chúng sinh đều được vẹn toàn trí tuệ). Đó là tâm nguyện của bậc minh quân gắn với Phật giáo sâu sắc.

Tóm lại, mối quan hệ giữa vương quyền và Phật giáo là một mối quan hệ đặc sắc trong văn hóa Đại Việt. Mối quan hệ này chẳng những cho thấy sự gắn bó chặt chẽ máu thịt của Phật giáo Việt Nam với vận mệnh dân tộc với Tổ quốc thiêng liêng và với từng tâm hồn của người Việt Nam. Mối quan hệ này còn cho thấy những vị vua sáng nếu biết vận dụng triết lý sáng suốt đầy tính nhân văn của Phật giáo trong việc trị nước nhất định sẽ thu được những thành tựu lớn lao, sẽ sống mãi trong lòng dân tộc. Mô hình điển hình của ba vị vua gắn với Phật giáo trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử dân tộc đã là một minh chứng tốt đẹp của mối quan hệ hài hòa giữa vương quyền và thần quyền rất Việt Nam.



* Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 20
    • Số lượt truy cập : 6116420