TƯ TƯỞNG CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO
CỦA TIẾN SĨ B.R. AMBEDKAR (ẤN ĐỘ)
VÀ HÒA THƯỢNG KHÁNH HÒA (VIỆT NAM):
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
TS. TỐNG THỊ QUỲNH HƯƠNG*
Tiến sĩ B.R Ambedkar và Hòa thượng Khánh Hòa tuy ở cách xa nhau về không gian nhưng lại sinh sống và tu học gần như cùng thời điểm. Không hẹn mà gặp, cả hai người lại có những điểm tương đồng về mặt quan điểm, cũng đều đại diện cho những khuynh hướng tiến bộ của Phật giáo hiện đại thế kỷ XX.
Vào thế kỷ XX, Phật giáo đã có bước phát triển mạnh mẽ ở rất nhiều nước trên thế giới, nhưng tại quê hương Ấn Độ, đạo Phật vẫn chỉ còn là những hào quang của quá khứ. Phần lớn người Ấn Độ không còn được biết đến Đức Phật hay giáo lý của đạo Phật với tư cách là một tôn giáo là như thế nào. Họ chỉ biết là Đức Phật (Lord Buddha) là hiện thân của thần Vishnu trong Hindu giáo, đồng nghĩa với việc Đức Phật là một vị thần của Hindu giáo. Nhưng chính sự lớn mạnh và phát triển không ngừng của Phật giáo trên khắp thế giới đã góp phần lan tỏa ngược lại Ấn Độ khiến cho việc đi tìm lại ánh sáng Phật pháp tại Ấn Độ trở thành một phong trào rộng lớn tại đây. Vì vậy, cũng trong thế kỷ XX, với những nỗ lực của nhiều cá nhân và tổ chức, đạo Phật ở Ấn Độ đã trở mình thức dậy như một chú sư tử sau một giấc ngủ dài. Tiến sĩ B.R.Ambedkar, một nhà tư tưởng được giới Phật tử biết đến như là sự hiện thân của một vị Bồ tát, ngài đã dóng lên tiếng chuông chánh pháp và khởi nguồn cho sự hồi sinh của Đạo Phật ở Ấn Độ.
Ở Việt Nam, một trong những người đi tiên phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo là Hòa thượng Khánh Hòa – một vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam hiện đại, người có nhiều đóng góp cho sự hưng thịnh trở lại của Phật giáo miền Nam nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung trong bối cảnh đất nước và đạo Phật có nhiều biến động ở nửa đầu thế kỷ XX.
Tiến sĩ B.R Ambedkar và Hòa thượng Khánh Hòa tuy ở cách xa nhau về không gian nhưng lại sinh sống và tu học gần như cùng thời điểm. Không hẹn mà gặp, cả hai người lại có những điểm tương đồng về mặt quan điểm, cũng đều đại diện cho những khuynh hướng tiến bộ của Phật giáo hiện đại thế kỷ XX. Với nhiều điểm tương đồng và cũng không ít khác biệt nhưng con đường chân lý cả hai cùng hướng tới chính là sự hưng thịnh của Phật giáo trong một thế giới đa tôn giáo.
Một vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Tiến sĩ B.R. Ambedkar (Ấn Độ) và Hòa thượng Khánh Hòa (Việt Nam)
Tiến sĩ B.R. Ambedkar (Ấn Độ)
Tiến sĩ Ambedkar tên đầy đủ là Bhimrao Ramji Ambedkar (14/4/1891 - 06/12/1956), thường viết tắt là B. R. Ambedkar. Ông sinh ra trong một gia đình theo truyền thống Hindu giáo, thuộc đẳng cấp thấp trong xã hội Ấn Độ, ở miền Trung Ấn Độ (nay là bang Madhya Pradesh). Ông được biết đến như là một luật gia, nhà kinh tế, chính trị gia, nhà cải cách xã hội, và nhà hoạt động tôn giáo ở Ấn Độ và là một Phật tử thực thụ. Tiến sĩ Ambedkar đã bỏ ra hơn 20 năm để học về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, rồi cuối cùng ông mới quyết định toàn tâm đi theo Phật giáo.
Năm 1907, Ambedkar đã vượt qua kỳ thi tuyển của Đại học Bombay (nay là Đại học Mumbai) và trở thành sinh viên tiện dân đầu tiên bước vào cấp đại học. Đây được coi là sự khởi đầu cho việc tiếp cận Phật giáo của Ambedkar. Năm 1913, Ambedkar nhận được học bổng du học tại Khoa Chính trị học, Đại học Columbia, New York, Hoa Kỳ. Ông đã hoàn thành khóa học và được trao bằng Tiến sĩ tại trường đại học này. Ông cũng là người thuộc đẳng cấp thấp đầu tiên của Ấn Độ được nhận học bổng du học tại một ngôi trường danh giá như vậy tại Hoa Kỳ.
Trong khoảng thời gian từ 1920-1923, Ambedkar sang London và hoàn tất luận án tiến sĩ thứ 2 tại đây. Năm 1947, Ambedkar được Chính phủ Ấn Độ độc lập mời làm Bộ trưởng Bộ Tư Pháp đầu tiên.
Ngày 29-8-1947, Ambedkar được bổ nhiệm làm Chủ tịch Uỷ ban Soạn thảo Hiến pháp. Trên cương vị này, ông đã đưa vào việc soạn thảo hiến pháp những quyền tự do tiến bộ với công dân như quyền tự do tôn giáo, bãi bỏ sự phân biệt đối xử đẳng cấp, quyền bình đẳng cho phụ nữ, v.v... Hiến pháp này đã được Quốc hội lập hiến thông qua ngày 26-11-1949.
Tiến sĩ Ambekar là người đã khởi xướng việc phục hưng Phật giáo Ấn Độ vào thập niên 30-60 của thế kỷ XX. Ông đã đem Phật giáo trở về Ấn Độ sau một thời gian dài Phật giáo vắng bóng ở đất nước này bởi nhiều nguyên nhân. Phát biểu về định hướng cuộc đời mình, Ambedkar từng nói: “Tôi sinh ra trong Hindu nhưng không chết trong Hindu”. Ông đã tạo ra phong trào cải đạo vĩ đại từ Hindu sang Phật giáo từ năm 1930 cho đến khi ông qua đời. Ông đã tiến hành rất nhiều cuộc cải đạo với quy mô lớn khoảng vài chục ngàn người tham gia mỗi lần.
Năm 1954, Ambedkar đã 2 lần đến Myanmar dự Hội nghị tình đoàn kết Phật tử thế giới Rangoon. Vào tháng 5-1956, trong một cuộc nói chuyện của Ambedkar trên đài truyền hình, ông đã nói: “Tôi thích Phật giáo bởi vì Phật giáo có ba nguyên tắc kết hợp, mà không có tôn giáo nào khác có được. Đạo Phật dạy Prajna (Trí tuệ), Karuna (Từ bi), và Samata (Bình đẳng). Đây là những gì mà con người mong muốn để có được cuộc sống đẹp và hạnh phúc. Ngay cả Thượng đế cũng không có thể làm gì được cho con người”1.
Ambedkar cũng đã nhận định: “Tôn giáo của Đức Phật là đạo đức. Phật giáo bao trùm lấy đạo đức. Phật giáo không có nghĩa gì nếu không có đạo đức. Chắc chắn rằng Phật giáo không tôn thờ Thượng đế. Thượng đế ngự trị trong đạo đức. Những đạo đức gì Thượng đế để vào trong các tôn giáo khác là Phật giáo”2. Với nhận định này, ông đã đặt Phật giáo vào một vị trí như là yếu tố cốt lõi của các tôn giáo khác, đó là đạo đức tôn giáo. Phật giáo không có Thượng đế quyền uy sáng tạo, hoạch định số phận của con người.
Sau khi qua đời, Tiến sĩ Ambedkar đã được Chính phủ Ấn Độ tri ân công lao với nhiều công trình mang tên ông như: đài tưởng niệm ông tại Delhi; Đại học Mở Tiến sĩ Babasaheb Ambedkar ở Hyderabad, Đai học Tiến sĩ B. R Ambedkar ở Andhra Pradesh, sân bay quốc tế Tiến sĩ Babasaheb Ambedkar ở Nagpur... Một bức chân dung lớn của Ambedkar cũng được trưng bày trong tòa nhà Quốc hội Ấn Độ. Vào các ngày kỷ niệm sinh nhật (ngày 14 tháng 4), ngày mất (06 tháng 12) và ngày Quy y Tam bảo (14 tháng 10) của ông, luôn có hàng triệu người tụ tập ở các công trình tưởng niệm để tỏ lòng kính trọng với ông. Đặc biệt, ngày sinh nhật của ông còn được Chính phủ Ấn Độ công nhận là ngày Quốc lễ.
Từ sự khơi nguồn của Ambedkar, Phật giáo Ấn Độ đã và đang từng bước trở mình và phát triển mạnh mẽ. Công đức đối với Phật giáo của Tiến sĩ Ambedkar là vô hạn, vì vậy, ông được giới Phật tử và Tăng Ni Ấn Độ tôn thờ như một Bồ tát vĩ đại, là đại hộ pháp, là Ashoka của thời nay3. Phật tử Ambedkar sẽ là hình ảnh bất tử trong lòng người tôn sùng đạo Phật ở Ấn Độ.
Hòa thượng Khánh Hòa
Hòa thượng Khánh Hòa, thế danh Lê Khánh Hòa, pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ngài sinh trong một gia đình trung lưu, có nề nếp Nho học. Từ nhỏ, ngài đã được tiếng thông minh và nết hạnh. Khánh Hòa là anh cả trong một gia đình có ba anh em, trong đó em trai kế của ngài cũng theo con đường xuất gia tu học.
Năm Ất Mùi (1895), ở độ tuổi 19, Khánh Hòa đến chùa Long Phước, quận Ba Tri, xin xuất gia học đạo. Sau đó, ngài đến học tại chùa Kim Cang, Tân An, được Hòa thượng Long Triều trực tiếp giảng dạy. Thời gian này, Khánh Hòa rất chăm chỉ và năng nổ trong việc học đạo, không ngại gian khó, khoảng cách xa xôi mà tầm sư học đạo. Nhờ tinh thần tiến thủ đó mà Khánh Hòa đi đến đâu cũng đều được các bậc trưởng thượng quý mến.
Năm Giáp Thìn (1904), Khánh Hòa nhập Hạ đầu tiên tại chùa Long Hoa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Nơi đây, được sự khuyến khích của chư Tôn đức, Hòa thượng Khánh Hòa đã giảng Kinh Kim Cang Chư Gia, rất được các vị Pháp sư và đại chúng ở trường Hạ quý mến. Từ đó về sau mỗi lần nhập Hạ, Hòa thượng đều có giảng kinh. Nhờ đó, bảo hiệu Khánh Hòa đã sớm vang danh khắp nơi trên đất Nam kỳ.
Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của Hòa thượng Khánh Hòa phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ngài đã đi tới nhiều tổ đình và Nam kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc. Hòa thượng đã liên kết được với một số vị cao tăng đồng chí, trong đó có Huệ Quang, Pháp Hải và Khánh Anh, những người đã cộng tác chặt chẽ với Hòa thượng trong suốt thời kỳ họat động của ngài sau này. Năm 1923, trong một buổi họp của đại diện các tổ đình tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng, một tổ chức tăng sĩ đã được thiết lập gọi là “Hội Lục hòa Liên hiệp” với mục đích là vận động thành lập một Hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc làm cơ sở chấn hưng Phật giáo. Trong số những người cộng sự của Hòa thượng Khánh Hòa, có một vị tăng sĩ trẻ đầy nhiệt huyết tên là Thiện Chiếu. Năm 1927, Thiện Chiếu được Hòa thượng Khánh Hòa gửi ra Bắc để vận động. Tuy nhiên, Thiện Chiếu gặp nhiều trở ngại nên cuộc vận động bất thành.
Sau mùa an cư tại Quy Nhơn, Hòa thượng Khánh Hòa trở về Nam đề nghị khởi xướng phong trào ở Nam kỳ trước. Trong khi công việc vận động xây dựng Thích học đường đang được xúc tiến thì Khánh Hòa cùng các bạn đồng chí quyết định thành lập một hội Phật học để làm bàn đạp cho sự tiến tới thành lập Phật giáo Tổng hội. Hòa thượng đã triệu tập các đồng chí của mình, đồng thời với sự góp sức của một số cư sĩ tại Sài gòn thành lập hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập năm 1931. Thiền sư Từ Phong chùa Giác Hải ở Chợ Lớn được bầu làm Chánh Hội trưởng. Hai vị cố vấn là thiền sư Huệ Định (71 tuổi) và thiền sư Trí Thiền (50 tuổi). Chùa Linh Sơn ở số 149 đường Douaumont được lấy làm trụ sở. Trong khuôn viên nhỏ bé của chùa có một thư viện cũng được xây dựng. Thư viện này có tên là Pháp Bảo Phương. Tục Tạng Kinh được đem an trí tại đây. Thiện Chiếu lại vận động giới cư sĩ ở Chợ Lớn gởi mua thêm cho Pháp Bảo Phương một Đại Tạng Kinh vừa mới được ấn hành tại Trung Hoa(28).
Năm 1934, thiền sư Khánh Hòa lui về chùa Vĩnh Bửu ở Bến Tre. Tuy đã già yếu, ông vẫn tổ chức được một Phật học đường cho Ni chúng. Đây là trường học đầu tiên cho Ni giới tại Nam kỳ. Năm 1947, ông về chùa Tuyên Linh cũng ở Bến Tre, và viên tịch ở đây vào ngày 19/6 âm lịch. Ông thọ bảy mươi tuổi. Năm 1955, thiền sư Huệ Quang, người đồng chí thân cận của ông, lúc bấy giờ đang làm Pháp chủ của Giáo hội Tăng già Nam Việt, hướng dẫn một phái đoàn đến chùa Tiên Linh và họp cùng môn đồ của chùa, làm lễ trà tỳ linh cốt của ông. Đó là vào ngày 11 tháng ba âm lịch. Tro và xá lợi của ông được tôn trí tại chùa Tuyên Linh.
Trong suốt hai mươi lăm năm trời, Khánh Hòa luôn luôn hăng hái trong công nghiệp phục hưng Phật giáo.Đường lối của ông là một đường lối ôn hòa. Ông thường tránh những cuộc bút chiến và tranh luận. Ông sống rất giản dị. Lúc gần tịch diệt, ông căn dặn chỉ nên tẫn liệm ông với bộ y hậu vải thường, không được dùng vải lụa, không được làm long vị sơn son thếp vàng. Các đồng chí của ông như Huệ Quang, Khánh Anh và Pháp Hải đều rất quý mến ông.
Những điểm tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng chấn hưng Phật giáo của Tiến sĩ Ambedkar và Hòa thượng Khánh Hòa
Những điểm tương đồng
- Hai tư tưởng đồng đại: Đều sinh vào cuối thế kỷ XIX và tiếp thu tư tưởng Phật giáo những năm đầu thế kỷ XX nên công cuộc chấn hưng Phật giáo của Tiến sĩ Ambedkar và Hòa thượng Khánh Hòa đều diễn ra trong khoảng từ những năm 20-30 đến những năm 50-60 của thế kỷ XX. Công cuộc chấn hưng này đã trải qua một khoảng thời gian lâu dài, qua nhiều giai đoạn thăng trầm và đều có ảnh hưởng lớn lao đến sự biến chuyển của Phật giáo tại Ấn Độ và Việt Nam thế kỷ XX.
- Tư tưởng chấn hưng Phật giáo bắt đầu ở giai đoạn trung niên của cuộc đời: Hai nhân vật đều là những nhà tư tưởng và đại diện cho khuynh hướng chấn hưng Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX ở hai quốc gia châu Á. Hòa thượng Thích Khánh Hòa lúc bắt đầu những tư tưởng này khi đã 40 tuổi, Ambedkar cũng đã ở độ tuổi 40. Ở độ tuổi này, cả hai ông đều thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc lý tưởng Phật giáo trong tư tưởng, đặc biệt là Ambedkar – vốn là một người ngoại đạo, ông đã dành 20 năm nghiên cứu về Phật giáo để hiểu, dấn thân và giúp những người khác dấn thân. Còn Hòa thượng Khánh Hòa, trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó, việc một hòa thượng có thể vượt khỏi ranh giới của tôn giáo và phụng sự nhiệm vụ dân tộc thì đó đã là một bước tiến bộ mang tính cách mạng của tôn giáo.
- Cả hai đều xuất thân trong những gia đình không có truyền thống Phật giáo, Hòa thượng Khánh Hòa sinh ra trong một gia đình nề nếp Nho giáo, bản thân hòa thượng cũng là một người am tường về Nho giáo, ngài sớm xuất gia ở lứa tuổi thanh niên. Còn Tiến sĩ Ambedkar sinh ra trong một gia đình có truyền thống Hinđu giáo nhưng ông lại dành cả phần đời còn lại của mình để chống lại một trong các truyền thống đã tồn tại cả nghìn năm của Hinđu giáo đó là sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp.
- Những tư tưởng của hai ông đều xuất phát từ thực tiễn xã hội nhiều bất công, chính thực tiễn này đã thôi thúc hai ông tiến hành chấn hưng Phật giáo: Khi đó, ở Ấn Độ là sự bất bình đẳng của chế độ đẳng cấp kéo dài hàng nghìn năm, sự lấn át của Hindu giáo so với tất cả các tôn giáo còn lại. Ở Việt Nam là sự suy yếu của Phật giáo nói chung, sự áp bức của chủ nghĩa thực dân và những rối ren của một xã hội thuộc địa sưu cao thuế nặng, nạn cướp đất diễn ra hàng ngày…
Ambedkar cảm nhận được sự khổ đau của sự đối xử phân biệt đẳng cấp gắt gao của xã hội Ấn Độ nên ngài đã dùng cả cuộc đời mình để chống lại và chuyển hoá sự phân biệt đối xử đó. Bản thân ngài sinh ra trong gia đình thuộc đẳng cấp cùng đinh của xã hội, đó là đẳng cấp Dalit. Mặc dù, thời Đức Phật tại thế, ngài đã không mệt mỏi để truyền bá tư tưởng bình đẳng giữa các đẳng cấp, nhưng sự phân biệt đẳng cấp mà đạo Bà la môn khi đó đặt ra vẫn còn rõ nét trong trái tim của người Ấn Độ qua hàng nghìn năm. Trong xã hội hiện đại, những tàn dư của chế độ đẳng cấp của Hindu giáo vẫn còn rất khắt khe ở nhiều vùng Ấn Độ, bốn đẳng cấp ban đầulà Brahma, Kshatriya, Vaisya, Sudra vẫn còn hiện diện với những đặc tính phân biệt trong xã hội. Xã hội Ấn Độ còn có một lớp người ngoài và dưới bốn đẳng cấp chính, đó là những người Dalit, họ bị coi là tiện dân, không được chạm đến vì sự dơ bẩn của họ (thường gọi là “untouchable”). Nhóm người này bị hạn chế những quyền lợi cơ bản như: giáo dục, giao thông, lễ bái… Họ bị khinh rẻ và đối xử bất công, số phận của họ gắn liền với sự nghèo cùng, đói khát, dơ bẩn, bệnh tật từ hàng ngàn thế hệ. Chính việc không được hưởng sự giáo dục nên họ không thể phát triển tri thức, việc vươn lên để thay đổi thân phận trong một xã hội phân biệt ngặt nghèo là điều rất khó khăn với họ.
Chứng kiến và cảm nhận sự đối xử bất công đối với chính bản thân mình và những người xung quanh, Ambedkar đã sớm hình thành một khao khát đổi thay xã hội. Bản thân là một học giả uyên bác, ông hiểu được khi xưa Đức Phật đã từng bác bỏ đẳng cấp rồi, bản thân Đức Phật cũng từ bỏ thân phận quý tộc của mình đã hiến dâng cho lý tưởng bình đẳng. Vì thế, Ambedkar áp dụng tinh thần của Phật giáo vào việc kêu gọi cách mạng giai cấp và làm sống dậy Phật giáo Ấn Độ đã ngủ yên khá lâu. Từ tinh thần này, Ambedkar đã làm sống dậy Phật giáo Ấn Độ và thổi vào xã hội Ấn Độ một luồng gió mát an lành của Phật giáo.
Cùng lúc ấy, tình hình xã hội Việt Nam cũng đang xảy ra nhiều biến động lớn. Sự khủng hoảng và suy vong của triều Nguyễn, sự tái chiếm trực tiếp của Pháp tại Nam kỳ, sau khi chúng nổ phát súng đầu tiên xâm lược tại Đà Nẵng (1858) đã khiến cho xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng rối ren, đời sống nhân dân cực khổ, Phật giáo theo đó bị mất dần vai trò trong một xã hội thuộc địa. Nhất là khi chúng sử dụng các cơ sở chùa chiền ở Sài Gòn làm phòng tuyến, gọi là “Phòng tuyến các chùa”. Tình trạng suy thoái toàn diện của Phật giáo ở Nam kỳ kéo dài đến đầu những năm 20 của thế kỷ XX4. Đó cũng là giai đoạn đòi hỏi những đổi thay trong Phật giáo cũng như trong tư tưởng của các Tăng sĩ, phải xây dựng một tôn giáo mang màu sắc dân tộc. Chính điều này đã tạo tiền đề cho công cuộc chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ, nơi xuất phát của phong trào đầu tiên trong cả nước. Hòa thượng Khánh Hòa đã đi nhiều nơi, giáo thiệp rộng với các nhân sĩ, trí thức, cư sĩ Phật giáo, nên ngài có hiểu biết sâu rộng về đời sống của người dân, tâm tư nguyện vọng cũng như tình hình xã hội Nam kỳ những thập niên đầu thế kỷ XX. Từ đó, Hòa thượng Khánh Hòa cùng với một số nhà sư có tinh thần yêu nước khác như Huệ Quang, Khánh Anh, Từ Phong, Thiện Chiếu… tiến hành các cuộc vận động chấn hưng Phật giáo.
- Quá trình tu học lâu dài là động lực trong việc hình thành tư tưởng chấn hưng Phật giáo ở hai ông.
Ambedkar được coi là một biểu tượng cho sự vươn lên về học vấn của những người thuộc đẳng cấp thấp trong xã hội Ấn Độ. Ông là một trong những người tiện dân hiếm hoi bước chân vào giảng đường đại học, đi du học ở những ngôi trường hàng đầu thế giới cũng như trở thành người thuyết giảng trong trường đại học và giảng sư về tôn giáo trong nhiều hội nghị tôn giáo lớn. Ông đã dành trọn vẹn cuộc đời mình cho con đường tu học với 20 năm nghiên cứu về đạo Phật và cả phần đời còn lại để tiếp tục nghiên cứu và thuyết giảng về đạo Phật cho đông đảo người dân Ấn Độ và các quốc gia ở khu vực lân cận. Với mong muốn hiểu sâu về những gì Đức Phật đã thuyết giảng, cuối thập niên 1940 Ambedkar còn học thông thạo tiếng Pali để tìm hiểu Phật giáo thông qua kinh tạng Nikaya5.
Trong khi đó, Hòa thượng Khánh Hòa cũng có sự nghiệp tu học vẻ vang không kém. Ngài không chỉ nổi tiếng là một nhà sư tinh thông Phật học mà còn am tường cả Nho học. Sau khi xuất gia, hòa thượng đã tham học tại nhiều ngôi chùa lớn như chùa Kim Cang, chùa Long Triều. Sau thời gian tu học, ngài bắt đầu giảng giáo lý, đào tạo Tăng sinh và dần mở rộng hoạt động ở Nam kỳ vào những năm đầu thế kỷ XX. Qua những hoạt động này thì tư tưởng chấn hưng Phật giáo bắt đầu hình thành và dần được hiện thực hóa trong các hoạt động của hòa thượng. Hòa thượng từng nói: “Phật pháp suy đồi, Tăng đồ thất học và không đoàn kết. Cho nên, muốn chấn hưng Phật giáo phải thực hành 3 việc: chỉnh đốn Tăng già; kiến lập Phật học đường và diễn kịch, xuất bản kinh sách Việt ngữ”6
- Trong quá trình chấn hưng Phật giáo, cả hai ông đều từng trải qua nhiều lần thất bại trước khi đạt được những thành tựu.
Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học do Hòa thượng Khánh Hòa sáng lập chỉ hoạt động được hơn 2 năm thì bị chính quyền thực dân Pháp khống chế và kiểm soát gắt gao, đưa đến sự từ chức của Phó Hội trưởng và Chủ nhiệm báo của Hòa thượng Khánh Hòa.
Do sự bất đồng ý kiến giữa chư tăng và một số cư sĩ nên học tăng nội trú của Thích học đường đến 1934 cũng không khai giảng được. Chương trình của Hòa thượng Khánh Hòa thất bại vì các thiền sư đã không nắm được thực quyền trong hội. Hội đã bị một số cá nhân dùng địa vị trong xã hội của họ để khuynh loát và định hướng khác. Ngay từ khi mới thành lập hội, ông Trần Nguyên Chấn - vốn là một cư sĩ đồng chí hướng với các hòa thượng đã vận động mời ông Khrautheimer (Thống đốc Nam kỳ) làm Hội trưởng danh dự và ông Rivoal (Đốc lý thành phố Sài Gòn) làm Phó Hội trưởng danh dự. Sự thỏa hiệp với chính quyền là để nhằm vào sự an toàn và quyền lợi của hội. Các lớp học luân chuyển do Hòa thượng Khánh Hòa khai mở cũng chỉ hoạt động được 3 khóa thì phải giải tán (1934) do thiếu kinh phí… Tuy gặp nhiều khó khan, nhưng Hòa thượng Khánh Hòa cùng nhiều đồng chí vẫn kiên trì theo đuổi con đường chấn hưng Phật giáo.
Với Amnedkar, ngài cũng trải qua nhiều tổn thất khi thực hiện công cuộc chấn hưng đạo Phật tại Ấn Độ. Lúc biên soạn bộ luật Hindu Code Bill, Ambedkar đã trình bày trước Quốc hội rằng: Đức Phật đã tuyên bố về sự công bằng và Đức Phật là người mạnh mẽ chống lại chế độ đẳng cấp7. Ngài muốn đưa sự bình đẳng xã hội vào bộ luật này. Tuy nhiên, bộ luật này đã không được thông qua theo như ý nguyện của ngài. Đó cũng là lý do mà ngài không muốn tiếp tục làm việc trong chính phủ của Thủ tướng Nehru (Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập).
Mặc dù B.R.Ambedkar đã tuyên bố rằng Đức Phật không phải là hóa thân của thần Vishnu và miệt mài đấu tranh cho tư tưởng này, nhưng những người Ấn giáo vẫn chỉ xem Đức Phật như một vị thần của Ấn giáo. Cũng giống như việc Ambedkar khuyên những người theo ông chớ có tin vào các thần linh của Ấn giáo, thì trong thực tiễn các Phật tử vẫn kết hợp việc thờ các thần linh này cùng chung với việc thờ Phật. Phong trào của B.R.Ambedkar được cho là đã thành công ở lĩnh vực chính trị - xã hội, nhưng đã không thành công ở lĩnh vực tín ngưỡng - tôn giáo. Những Phật tử theo phong trào này, nói chung đã thay đổi đáng kể vị thế xã hội nhờ vào sự thay đổi nghề nghiệp và việc phát triển giáo dục. Nhưng những Phật tử mới này đã không cải sang Phật giáo một cách triệt để, tức là niềm tin và sự phụng thờ các vị thần Ấn giáo vẫn còn được họ thực hành, và niềm tin mới bị trộn lẫn vào trong truyền thống cũ.
- Chủ trương ôn hòa và con đường đấu tranh kiên trì, nhẫn nại.
Đường lối của Hòa thượng Khánh Hòa luôn là ôn hòa, tránh bút chiến, tránh tranh luận. Là một bậc chân tu, sớm giác ngộ, thấu hiểu tinh thần đạo đức từ bi và trí tuệ của Phật giáo, Hòa thượng Khánh Hòa cho rằng chỉ có con đường nhẫn nại, hiến thân cho đạo Pháp một cách ôn hòa mới đạt được kết quả. Hòa thượng chủ trương mọi hành động của mình đều là bất bạo động, đều phải xuất phát từ tâm an lạc, thanh tịnh, tránh những tranh cãi…
Ambedkar cũng kiên trì theo đuổi con đường bất đạo động trong việc chấn hưng Phật giáo ở Ấn Độ. Ông luôn cho rằng tinh thần của Phật giáo là đạo đức nên bằng trí tuệ và đạo đức của một Phật tử làm cho người Ấn Độ hiểu và tin theo, cải đạo sang Phật giáo chứ không bằng con đường ép buộc người khác phải làm theo mình. Ðức Phật không bao giờ “dụ dỗ” người khác đến với ngài bằng niềm tin mù quáng, mà ngược lại khuyến khích họ hãy tìm hiểu trước. Ambedkar đã tiếp cận Phật giáo bằng con đường của lý trí. Ambedkar học Phật nên đương nhiên không bao giờ bắt người khác phải tin mình, theo mình. Ông nói với những người cùng đi theo ông rằng, đừng có nhảy vào lửa chỉ vì ông bảo họ làm thế, mà phải suy nghĩ. Cũng thế, đừng có theo Phật giáo chỉ vì ông làm thế. Có như vậy thì họ mới có thể trở thành những Phật tử đúng nghĩa khi quy y.
Những điểm khác biệt
Mặc dù hai nhà tư tưởng của thời đại có nhiều điểm tương đồng tiến bộ nhưng mỗi người lại có những khác biệt riêng làm nên bản sắc dân tộc và dấu ấn cá nhân trên con đường chấn hưng Phật giáo ở mỗi quốc gia.
Thứ nhất là sự khác biệt trong mục tiêu của tư tưởng chấn hưng Phật giáo ở hai ông.
Ambedkar xuất thân trong một gia đình Hindu giáo, ông cũng là một tín đồ Hindu giáo. Sau đó, bản thân ông đã cải đạo sang Phật giáo sau một quá trình nhận thức lâu dài và sâu sắc về Phật giáo. Ambedkar sau khi quy y thì cũng tiến hành nhiều cuộc cải đạo cho rất nhiều tín đồ Hindu sang đạo Phật. Việc chấn hưng của ông tiến hành trên quy mô lớn, bắt đầu bằng việc truyền bá giáo lý đạo Phật tới đông đảo quần chúng bị áp bức… Ambedkar đã đi các nơi để diễn thuyết và kêu gọi bãi bỏ chế độ đẳng cấp và truyền bá Phật giáo. Theo đó, nhiều cuộc Quy y Tam bảo quy mô lớn với ý nghĩa cải đạo từ Hindu sang Phật giáo, với số lượng vài chục ngàn người mỗi lần được tổ chức trong nhiều nơi ở Ấn Độ vào thời kì bấy giờ.
Ngày 14 -10-1956, tại Nagpur, Ambedkar đã tổ chức buổi lễ Quy y Tam bảo cho ngài và 380.000 người8. Tại buổi lễ ông đã phát nguyện 22 điều thệ nguyện của ngài, trong đó có: Con không tin vào sự hiện thân của Thượng đế, con không tin Đức Phật là hiện thân của Thần Vishnu vì đó là sự tuyên truyền không đúng, con không vi phạm những nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật, con không cho phép thực hiện bất cứ nghi lễ của những người Bà La Môn, con tin vào sự bình đẳng của con người, con nỗ lực để thiết lập sự bình đằng, con thực hành Bát Chánh Đạo của Đức Phật, con thực hành 10 Ba La Mật được truyền dạy từ Đức Phật, con long trọng tuyên bố từ đây con hướng cuộc đời con theo giới luật của Đức Phật và giáo pháp của ngài…9. Những điều này thể hiện niềm tin vững chắc vào Phật Pháp và cũng thể hiện sự quyết tâm hành trì một cách mạnh mẽ. Đây cũng thể hiện sự sáng tạo và cải cách trong lễ quy y của đạo Phật.
Ngày hôm sau (15-10-1956), Ambedkar phải tổ chức thêm một lễ Quy y Tam bảo nữa cho khoảng 100.000 người đến sau và cầu thỉnh chư Tăng truyền Tam Quy Ngũ giới cho những người này10. Như vậy, tổng cộng là 460.000 người đã phát nguyện trở thành Phật tử chỉ trong một thời gian ngắn.
Sau ngày Quy y, ngài Ambedkar sang Kathmandu tham dự Hội nghị Phật giáo Thế giới, tại Nepal. Tại đây, ngài đã thuyết trình chủ đề “Đức Phật và Karl Marx”. Bằng những hoạt động không mệt mỏi, ngài đã kêu gọi tầng lớp tiện dân Ấn Độ cải đạo sang Phật giáo. Tính đến khi ngài qua đời, khoảng 750.000 người đã trở thành Phật tử và hàng tháng có hàng trăm, hàng ngàn người đã quy y. Tính đến năm 1961, số Phật tử ở Ấn Độ là khoảng 3.250.227 người11.
Trong khi đó, Hòa thượng Khánh Hòa đã lựa chọn con đường tu hành để trở thành một vị cao tăng từ khi còn rất trẻ (ngài xuất gia năm 19 tuổi). Con đường của Hòa thượng Khánh Hòa là con đường của một bậc chân tu, một người xuất gia đích thực, bằng sự am tường về Phật giáo không chỉ để giảng dạy mà còn góp phần cải tạo, thay đổi bản thân Phật giáo để thích hợp với hoàn cảnh mới và đưa tới sự hưng thịnh trở lại của Phật giáo.
Khác với việc mang Phật giáo trở lại trên diện rộng với đông đảo người Ấn Độ của Ambedkar, con đường chấn hưng Phật giáo của Hòa thượng Khánh Hòa mang tính toàn diện, đi từ cách mạng trong chính bản thân giáo lý, giáo chế Phật giáo tiến tới cách mạng trong ý thức tư tưởng con người và đóng góp vào phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Nói một cách khác thì Ambedkar chấn hưng Phật giáo theo chiều rộng hướng tới một cộng đồng tín đồ đông đảo, còn Hòa thượng Khánh Hòa lại tiến hành chấn hưng Phật giáo theo chiều sâu của bản thân tôn giáo và tầng lớp Tăng sĩ.
Thứ hai là sự khác biệt trong bối cảnh phát triển của tư tưởng chấn hưng Phật giáo ở hai ông.
Ambedkar tiến hành phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ trong bối cảnh Hindu giáo đang thịnh hành, Phật giáo đã gần như biến mất khỏi đất Ấn trong nhiều thế kỷ. Việc đưa Phật giáo trở lại Ấn Độ là một việc làm rất khó khăn. Nhưng với tư cách là người lãnh đạo của giai cấp cùng đinh và là một Phật tử, Ambedkar rất muốn phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ, coi đó là nhiệm vụ thiêng liêng và là tâm nguyện suốt cả đời của ông.
Trong bài phát biểu của ông tại một ngôi chùa ở Bombay vào ngày 29-9-1950, ông nói rằng sẽ công hiến phần còn lại của mình cho sứ mạng phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ. Tháng Giêng năm sau, phát biểu với đại biểu của Hội Đại bồ đề (Maha Bodhi Society) và Hội Phúc lợi giai cấp cùng đinh Delhi (Delhi Scheduled Castes Welfare Association), ông cũng nói rằng - đã quyết định phục hưng lại tôn giáo vĩ đại của Đức Phật và làm cho Phật giáo một lần nữa, vinh quang trở lại trên mảnh đất Ấn Độ.
Hầu như trong những lần có dịp nói chuyện với công chúng là Ambedkar đều nói lên tâm nguyện ông về phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ. Ông cho rằng Ấn Độ đã sẵn sàng đón nhận thông điệp của Đức Phật trở lại. Theo Ambedkar, Ấn Độ là quê hương của Phật giáo, Phật giáo đã từng một thời gian dài thịnh hành ở Ấn Độ, tuy Phật giáo sau đó bị suy tàn, nhưng không ai có thể nói rằng đạo Phật đã chết tận gốc rễ. Ông khẳng định rằng không phải thiết lập một tôn giáo mới mà chỉ là khôi phục lại tín ngưỡng sẵn có. Việc phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ có lợi thế là Đức Phật - Ngài trở lại đất nước mình mà không cần phải xin hộ chiếu hay Visa gì cả. Ambedkar cũng cho rằng lúc này là thời gian tốt nhất để phục hưng Phật giáo. Những người Hindu cấp tiến cũng bất mãn với giáo lý bất bình đẳng của đạo Hindu và sẵn sàng theo Phật giáo. Chỉ cần có ý chí và quyết tâm, thì việc phục hưng Phật giáo là không khó.
Hòa thượng Khánh Hòa lại phục hưng Phật giáo trong tâm thế của một nhà cải cách tôn giáo cũng đồng thời là một nhà cách mạng, việc phục hưng của ông đã vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo mà còn mang tính dân tộc, đại chúng.
Trước tình hình đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, dù luôn kiên trì con đường bất bạo động nhưng không vì thế mà Hòa thượng Khánh Hòa thờ ơ trước nỗi đau dân tộc. Hòa thượng đã hiến tặng quả chuông đồng của chùa Tiên Linh cho cách mạng để đúc vũ khí. Nhiều tăng sinh theo học tại Lưỡng Xuyên Phật học được sự ủng hộ của Hòa thượng cũng hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến, gác lại việc tu học, lên đường tham gia kháng chiến. Hội Phật giáo Cứu quốc do Hòa thượng Khánh Hòa sáng lập cũng nhằm mục đích phụng sự sự nghiệp giải phóng dân tộc theo đường lối và tôn chỉ tích cực của Hòa thượng.
Khi Cách mạng tháng Tám – 1945 bùng nổ, Hòa thượng đã kêu gọi các Phật tử ủng hộ chính quyền cách mạng, tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay cả khi tuổi cao sức yếu, Hòa thượng đã sắp xếp căn dặn học trò, tín đồ tham gia phục vụ đạo pháp, dân tộc trước khi từ giã cõi đời.
Thứ ba là những khác biệt trong con đường hiện thực hóa tư tưởng chấn hưng Phật giáo.
Ambedkar thành lập nhiều tổ chức, Hội, trường học giúp cho việc truyền bá và chấn hưng Phật giáo, bản thân ông cũng trở thành một người truyền giáo đích thực. Vào năm 1950, ông đã thành lập Học viện có tên là Siddhartha College, cũng vào năm 1950 ông tiếp tục thành lập Đại học Milind Maha Vidyalaya, đây đều là các trường đại học Phật giáo. Năm 1955, Ambedkar thành lập Hiệp hội Phật giáo Ấn Độ (Bharatiya Bauddha Mahasabha). Ngài đã dựng một tượng Phật trong ngôi đền ở đại lộ Dehru, gần thành phố Pune(Poona)12.
Năm 1951, ông cũng đã viết một quyển sách diễn giải về Phật Pháp một cách dễ hiểu cho đại đa số quần chúng. Cho đến lúc cuối đời ngài đã làm việc cực lực để hoàn thành quyển sách đó. Tác phẩm đó có tên là “Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài” (Buddha and His Dhamma). Ngài hoàn thành quyển sách ấy trong đêm 5-12. Người ta phát hiện ra ngài đã qua đời sáng ngày 6-12-1956 tại tư gia ở New Delhi, hưởng thọ 64 tuổi13. Tác phẩm này được xuất bản vào kỷ niệm 2.500 năm ngày Phật nhập Niết Bàn (Mahaparinirvana) vào năm 195714.
Trong khi đó, Hòa thượng Khánh Hòa cũng chủ trương thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, nhưng trên hết hòa thượng muốn thông qua các hoạt động giáo dục và xuất bản, báo chí để tạo ra một lớp Tăng sĩ mới thấm nhuần Phật pháp. Hòa thượng còn mong muốn mang các tác phẩm Phật giáo kinh điển về Việt Nam và thông qua các tác phẩm nghiên cứu Phật học, các ấn bản Phật học giúp đưa chân lý Phật giáo đến với đông đảo quần chúng. Ngoài ra, hòa thượng còn sử dụng báo chí như một kênh thông tin để truyền bá tư tưởng đến quần chúng thay vì tổ chức các buổi thuyết giảng với quy mô lớn như Ambedkar.
Năm 1928, ông cùng ba vị tăng sĩ đồng chí là Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm lo tổ chức việc xây dựng Thích học đường và Phật học Thư xã tại chùa Linh Sơn ở Sài Gòn. Năm 1929, Hòa thượng Khánh Hòa và
sư Thiện Chiếu lại vận động giới cư sĩ hữu tâm ở Trà Vinh gửi mua cho Thư xã một bộ Tục Tạng Kinh gồm 750 tập và an trí tại chùa Linh Sơn. Hòa thượng Khánh Hòa giữ trách vụ Phó nhất Hội trưởng Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học và Chủ nhiệm tạp chí Từ bi âm. Tạp chí này ra đời ngày 1.3.1932.
Năm 1929, Khánh Hòa cho ấn hành một tập san Phật học bằng chữ quốc ngữ lấy tên là Pháp âm. Pháp âm đặt cơ sở tại chùa Xoài Hột - Mỹ Tho, dựa trên sự ủng hộ kinh tế của bổn đạo chùa này. Đó là tờ báo nghiên cứu Phật giáo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại Việt Nam. Số đầu ra đời ngày 13.8.1929.
Kết luận
Hai nhà tư tưởng lớn của Việt Nam và Ấn Độ đã có nhiều đóng góp cho sự hưng thịnh trở lại của Phật giáo, đặt nền móng cho những đổi thay của đạo Phật trong thế giới hiện đại. Trong quá trình gần nửa thế kỷ cống hiến không biết mệt mỏi cho công cuộc chấn hưng Phật giáo, cả hai nhà tư tưởng đã góp phần đưa Phật giáo nước mình bước lên một tầm cao mới. Trên tinh thần Phật pháp, dân tộc và đại chúng, hai nhà tư tưởng đã thể hiện tầm nhìn của thời đại đối với tôn giáo, đấu tranh cho độc lập dân tộc cũng như bình đẳng xã hội. Với những cống hiến của mình, Hòa thượng Khánh Hòa được coi là một tấm gương cao đẹp về đạo đức, trí tuệ, lòng yêu nước, tinh thần từ bi hỉ xả hiến dâng cho Phật giáo đối với hàng vạn tín đồ. Trong khi đó, Tiến sĩ Ambedkar xứng đáng được coi là một nhà tư tưởng tiến bộ, nhà cải cách tôn giáo vĩ đại đã mang ánh sáng của Đức Phật trở lại trên quê hương của tôn giáo này và được nhiều thế hệ người Ấn Độ tôn vinh.
* Khoa Lịch sử - Đại học Sư phạm Hà Nội.
1. R. M. Pal, Remembering Dr. Ambedkar, p. 2.
Source: http://www.pucl.org/reports/ National/ambedkar0.htm
2. Dr Babasaheb Ambedkar, Writings and Speeches, vol.1 (Bombay 1979), p. 57.
3. Sangharakshita (1986), Ambedkar and Buddhism, Windhorse Publications, p.13.
4. Trần Hồng Liên, Hòa thượng Khánh Hòa và phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ đầu thế kỷ XX, Kỷ yếu Hội thảo “Hòa thượng Khánh Hòa và phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam”. TP. Hồ Chí Minh, tháng 5-2017.
5. Bellwinkel-Schempp, Maren (2004). “Roots of Ambedkar Buddhism inKanpur”. in Jondhale, Surendra; Beltz, Johannes. Reconstructing the World: B.R. Ambedkar and Buddhism in India. New Delhi: OUP, p.221–244.
6. https://quangduc.com/a5562/hoa-thuong-khanh-hoa
7. Sangharakshita, Ambedkar and Buddhism, Windhorse Publications, 1986, p. 56.
8. Sangharakshita, Ambedkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi, 1986, p. 80.
9. Đây là những dòng chữ viết tay của Ambedkar trong lá thư gửi cho Devapriya Valisinha ngày 30/10/ 1956. Tạp chí “The Maha Bodhi (Calcutta)”, vol. 65, p. 226.
10. Sangharakshita, Ambedkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi, 1986, p. 80.
11. Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi, 1986, p. 13.
12. Sangharakshita, Ambedkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi, 1986, p. 77.
13. Sangharakshita, Ambedkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi, 1986, p. 12.
14. Sangharakshita, Ambedkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers,New Delhi, 1986, p. 59.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết