Thông tin

VÀI CẢM NHẬN VỀ SỰ SỐNG ĐẠO TRÊN HÀNH TRÌNH VÔ NGÃ

 

MINH QUANG

 

 

 

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy Tôn giả Tu Bồ Đề về “Tánh Không” của các pháp, đơn cử qua vài đoạn như sau:

- “Các vị đại Bồ tát phải hàng phục tâm mình như vầy: Bao nhiêu loài chúng sanh, hoặc noãn sanh, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, thời Ta đều làm cho được diệt độ vào Vô dư Niết bàn. Diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thiệt không có chúng sanh được diệt độ. Tại sao vậy? Này, Tu Bồ Đề! Nếu vị Bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thời chẳng phải là Bồ tát”...

- “Phàm hễ có tướng đều là hư vọng! Nếu nhận thấy các tướng đều là không phải tướng, chính là thấy Như Lai”.

- “Nếu chấp tướng pháp, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp tướng phi pháp, thời cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vì thế chẳng nên chấp pháp, cũng chẳng nên chấp phi pháp... Này, các Tỳ kheo, các ông phải biết, pháp Ta nói đó, dụ như thuyền bè, đến pháp còn phải xả, hà huống là phi pháp!”.

“Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Đức Như Lai có chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Đức Như Lai có nói pháp chăng?”. Ông Tu Bồ Đề bạch: “Như con hiểu ý nghĩa của Phật nói, thời không có pháp nhứt định nào gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhứt định nào mà đức Như Lai có thể nói. Bởi vì sao? Vì pháp của đức Như Lai nói, đều không thể vin lấy, không thể nói được, chẳng phải pháp, chẳng phải không phải pháp. Tại vì sao? Vì tất cả Hiền Thánh, đều do nơi pháp vô vi mà có từng bực khác nhau”.

“Này, Tu Bồ Đề! Các vị đại Bồ tát phải nên sanh tâm thanh tịnh như vầy: Chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, và pháp mà sanh tâm, nên không chỗ trụ trước mà sanh tâm thanh tịnh”.

“Tu Bồ Đề! Vì thế nên, Bồ tát phải lìa tất cả tướng, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sanh tâm. Không trụ trước vào đâu cả mới gượng nói là chân tâm”.

“Này Tu Bồ Đề! Đức Như Lai nói có ngã đó chính chẳng phải có ngã, mà kẻ phàm phu lại cho là có ngã. Này Tu Bồ Đề! Phàm phu đó, đức Như Lai nói chính chẳng phải phàm phu đó tạm gọi là phàm phu”.

“Này Tu Bồ Đề! Như có người nói: Đức Phật nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Ý ông nghĩ sao? Người ấy hiểu nghĩa lý Như Lai nói chăng?”. “Bạch đức Thế Tôn! Không. Người ấy không hiểu nghĩa lý đức Phật nói. Bởi vì sao? Đức Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chính chẳng phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, đó tạm gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”.

“Này Tu Bồ Đề! Nơi tất cả pháp, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng. “Này Tu Bồ Đề! Pháp tướng nói ra đó, đức Như Lai nói chính là không phải pháp tướng, đó tạm gọi là pháp tướng”1

Trên đây là những lời Đức Phật phương tiện ngôn ngữ chỉ dạy chúng sanh về Không Tánh, tức Như Lai Tánh, Thường Trụ Tánh, Chơn Như Tánh. Thật ra, một khi nói đến Không Tánh, thì chẳng thể mở lời. Đây cũng chính là tư tưởng cốt lõi của “Sự sống đạo” trên hành trình vô ngã mà tất cả chúng ta đang hướng đến.

Và tất cả cũng chỉ là gượng nói, như lời Phật dạy: “Này Tu Bồ Đề! Ta ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhẫn đến không có chút pháp chi có thể gọi là được, đó mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Theo như lời Đức Phật đã dạy,

thì “Quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc” và “chẳng có một pháp có thể được”. Như nay chúng ta nói trở về tự tánh, thì cũng là gượng nói, và nói đến hành trình vô ngã thì cũng là gượng nói. Nhưng một khi đã dùng đến ngôn ngữ, một khi đã gượng nói, thì ắt nó cũng có nguyên nhân và mang một ý nghĩa nhất định nào đó, chứ không tự nhiên mà đặt để diễn bày.

Trên tinh thần này, trước tiên, khi nghe nói đến “Sự sống đạo” thường thì chúng ta sẽ tưởng rằng có “đạo” để “sống”. Hoặc nghĩ rằng đó là một cách tu hành. Nhưng kỳ thật, trên hành trình vô ngã, thì hoàn toàn không có bất kỳ một sự tác ý nào cả. Nên khi nói “sống đạo”, thì chúng ta cần phải hiểu đó là “Lý đạo”. Nói đúng hơn, đó chỉ là “Lý” hiển “Tánh”. Nói gọn, thì đó là “Lý Tánh”. Một khi đã là “Lý Tánh” thì không thể nào “tu”, mà duy nhất chỉ là “trực nhận” thì mới có thể thong dong tiêu dao tự tại. Ở đây, “Lý Tánh” là Thể. “Sự sống đạo” là Dụng.

Đây chính là yếu chỉ: “Không trụ trước vào đâu cả mới là chân tâm” như lời Đức Phật đã dạy trong Kinh Kim Cang.

Trong Phật giáo, người chân chính học Phật có nhiều phương cách thể nhập chân lý. Có người tham thiền mới ngộ đạo. Có người nhất tâm niệm Phật mới ngộ đạo. Có người một đời tinh nghiêm giới luật kiên trì cẩn mật mà thể nhập chơn đạo. Có người chỉ quán miên mật mà ngộ đạo. Có người tham cứu kinh tạng chạm đến chỗ uyên áo vi mật mà ngộ đạo. Cũng có người nhơn nơi lý mà siêu việt nhị biên đối đãi, đốn ngộ chơn tâm. Và “Sự sống đạo” trên hành trình vô ngã mà chúng ta đang quan tâm, chính là thông suốt lý tánh, siêu việt “Nhị Không”2.

Thật ra “Sự sống đạo” chẳng phải do tác nhân hành sự, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi. Do vì chẳng phải hữu vi, cũng chẳng phải vô vi, nên không thể diễn đạt bằng lời. Thay vì im lặng, thì nay chúng ta chỉ gượng nói là “Sự sống đạo” hàm ý diễn bày một sự thể vô ngôn. Vả lại, nếu dùng hoạt ngữ cũng e có người theo đó mà khó tránh khỏi dính mắc.

 

Đức Phật giáo hóa ngoại đạo

 

Sự im lặng như “tiếng rống sư tử” đã được ghi lại trong Tắc Công Án thứ 65 (Ngoại Đạo Ngựa Hay Bóng Roi) trong tác phẩm Bích Nham Lục3, như sau: “Ngoại đạo hỏi Phật: “Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời?”. Thế Tôn lặng thinh giây lâu. Ngoại đạo tán thán: “Thế Tôn đại từ đại bi vẹt mây mù cho con, khiến con được vào”. Ngoại đạo đi rồi, A Nan hỏi Phật: “Ngoại đạo chứng được cái gì mà nói được vào?”. Phật bảo: “Như ngựa hay ở đời, thấy bóng roi liền chạy”. Và trong tác phẩm này, Thiền sư Tuyết Đậu đã có lời bình: “Việc này hẳn chẳng ở trên ngôn cú, cũng chẳng lìa ngôn cú, nếu vừa có nghĩ nghị liền cách xa ngàn dặm muôn dặm”.

Để giúp quý Phật tử cảm nhận về điều “không thể diễn đạt bằng lời”, chúng tôi xin lược trích vài đoạn trong Kinh “Ví Dụ Con Rắn” (Alagaddūpama Sutta), thuộc Trung Bộ Kinh: “Này các Tỳ kheo, một khi không thực sự tìm thấy được cái ngã nào hay bất cứ thứ gì thuộc về ngã, thì quan điểm theo kiểu phỏng đoán như: “Vũ trụ là Ātman (linh hồn), tôi sẽ là nó sau khi chết, thường hằng, trường tồn, mãi mãi, bất biến và tôi sẽ tồn tại như thế cho đến bất tận” chỉ là quan điểm không sai lầm và mê muội4. Qua đó cho thấy, Đức Phật khẳng định dứt khoát là cái gọi là “bản ngã” đó là không thể nào tìm thấy được trong thực tại. Và đó chỉ là điều mê lầm khi con người đặt niềm tin vào sự có mặt của một cái ngã như vậy. Do vậy, khi có người hỏi về sự “Có” và “Không” của “bản ngã”, thì hầu như Đức Phật đều tỏ thái độ im lặng. Và sự im lặng của Đức Phật thể hiện trong câu chuyện tu sĩ Vacchagotta khi ông này hỏi Đức Phật là có một “bản ngã” (Ātman) hay không, được ghi lại như sau: “Du sĩ Vacchagotta đến gặp Đức Phật, hỏi: “Thầy Cồ Đàm, có một Bản Ngã không?”. Đức Phật im lặng. Vacchagotta đứng dậy và bỏ đi. Sau khi du sĩ bỏ đi, Ānanda liền hỏi Đức Phật: “Tại sao Đức Thế Tôn không trả lời câu hỏi của du sĩ Vacchagotta”. Đức Phật liền đáp: “Này Ānanda, khi du sĩ Vacchagotta đó hỏi: “Có ngã phải không?”, nếu ta trả lời: “Có ngã”, thì, này Ānanda, ông ta sẽ đứng về lập trường của các du sĩ, ẩn sĩ và các Bà la môn là những người đang nắm giữ thuyết trường tồn bất diệt (thường kiến). “Này Ānanda, khi du sĩ Vacchagotta đó hỏi: “Không có ngã phải không?”, nếu ta trả lời: “Không có ngã”, thì, này Ānanda, ông ta sẽ đứng về lập trường của các du sĩ, ẩn sĩ và các Bà la môn là những người nắm giữ thuyết diệt vong (đoạn kiến)”. Và trong một lần khác, Đức Phật đã nói với du sĩ Vacchagotta rằng: “Như Lai không có triết lý nào cả, bởi Như Lai đã thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng”. Và Đức Phật dạy Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, khi du sĩ Vacchagotta hỏi: “Có ngã phải không?”, nếu ta trả lời: “Có ngã”, thì liệu điều này có đúng với sự hiểu biết của ta là “Tất cả mọi thứ đều vô ngã” hay không?”. “Chắc chắn không, thưa Đức Thế Tôn”. “Này Ānanda, khi du sĩ Vacchagotta đó hỏi: “Không có ngã phải không?”. Nếu ta trả lời: “Không có ngã”, thì sẽ càng làm cho Vacchagotta rối trí mà y vốn đã bị rối trí từ lâu về vấn đề này rồi. Bởi vì ông ta có thể sẽ nghĩ rằng: “Trước đây ta có một cái ngã (Ātman), còn bây giờ thì (biết rằng) ta không có cái ngã (hay linh hồn) nào hết”. Vì vậy, đối với trường hợp đặc biệt này, Đức Phật trả lời câu hỏi của du sĩ Vacchagotta vốn đang bị rối trí bằng cách im lặng. Trong sự im lặng đó, Đức Phật đã mặc khải chân lý bất khả tư nghì. Thật ra, sự im lặng của Đức Phật có nhiều tác dụng đối với du sĩ Vacchagotta hơn là lời hùng biện cho vấn đề này. Và đó cũng chính là “Sự sống đạo” mà chúng ta đang luận bàn.

Thực tế đời sống, con người thường có một cảm giác mơ hồ về cái “Ta” và đã tạo ra ý tưởng về một “bản ngã” mà không có một thực tại tương ứng với nó. Và để sáng tỏ lẽ thật này, trong Tương Ưng Bộ Kinh, quyển 3 (Kinh SN 22:89) có ghi một cuộc đàm đạo giữa Tỳ kheo Khemaka và một nhóm Tỳ kheo Trưởng lão. Đại ý rằng, những vị Tỳ kheo đã hỏi Tôn giả Khemaka có thấy được cái “Ngã” hay bất cứ cái gì liên quan đến “Ngã” ở bên trong con người ngũ uẩn hay không. Tôn giả Khemaka đáp: “Tôi không coi cái nào trong ngũ uẩn bị dính chấp đó là cái “Ta” hay thuộc cái “Ta”, nhưng tôi không phải là một A La Hán, người đã diệt sạch mọi ô nhiễm. Này các đạo hữu, cái “Ta” vẫn chưa biến mất trong tôi, trong mối liên hệ với ngũ uẩn bị dính chấp này, nhưng tôi không coi bất kỳ uẩn nào là cái “Ta”, đây là “Ta”. Sau đó, Tỳ kheo Khemaka giải thích rằng, cái “Ta là” thực sự không phải là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, hay Thức, hay bất cứ cái gì ngoài những thứ đó. Nhưng Tỳ kheo Khemaka cảm giác cái “Ta là” khi xem xét về ngũ uẩn, nhưng không thể nào thấy rõ “đây là cái “Ta”“. Thật ra, đây cũng chính là cái “Ta” mà cho đến nay nhiều người vẫn nghĩ khi nói hay bàn luận về “Ngã”.

Trong kinh ghi lại, đại ý, Tỳ kheo Khemaka diễn giải rằng, nó giống như mùi hương của một bông hoa, nhưng nó không phải là mùi hương của cành hoa, không phải là mùi hương của màu hoa, không phải mùi hương của phấn hoa, mà là mùi hương của hoa. Rồi Tỳ kheo Khemaka giải thích thêm, ngay cả một người đã chứng đắc những giai đoạn giác ngộ đầu cũng vẫn còn cảm giác cái “Ta là”, nhưng sau đó, người đó tu tiến thêm nữa, thì toàn bộ cảm giác “Ta là” sẽ biến mất, giống như mùi chất tẩy trong áo quần mới giặt sẽ bay đi mất sau một thời gian cất giữ trong tủ vậy. Cuộc thảo luận này thật là hữu ích đối với những vị Trưởng lão Tỳ kheo, như trong bài kinh đã ghi lại rằng: “Sau đó, chúng Trưởng lão và cả Tỳ kheo Khemaka đều chứng thánh quả A La Hán, hết sạch những ô nhiễm, cuối cùng cũng không còn cái cảm giác “Ta là” nữa”. Như vậy, thể tính chân lý nằm ở đây. Đó là hoàn tất hành trình vô ngã, là sự thể nhập lý tánh, hiện tiền chơn không diệu hữu, như lời Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác cảm thán trong Chứng Đạo Ca: “Mặc ai biếm, mặc ai gièm. Đốt lửa châm trời nhọc xác thêm. Ta nghe như uống cam lồ vậy. Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn”.

Nội dung mà chúng tôi trích dẫn trên đây không ngoài mục đích nói lên yếu chỉ “Tất cả pháp vô ngã”. Đây là chân lý mà Đức Phật đã dạy trong hầu hết kinh tạng nhằm mục đích giúp người con Phật nhận chân tính Vô thường, Khổ và Vô ngã của vạn pháp. Đồng thời, đặc biệt nhấn mạnh tính Vô ngã của cái gọi là “bản ngã” mà con người lầm chấp vào tấm thân ngũ uẩn cho là thật ngã.

Song, thực tế vẫn không ít người, tuy nhận thức phần nào đúng bản chất vô ngã của ngũ uẩn, nhưng lại nhầm về lý đạo trong sự tu hành, tức là đã có hiểu nhầm trong “Sự sống đạo”. Do vì hiểu nhầm là sẽ có một trạng thái tâm để y cứ, để “như lý tác ý”. Từ đó, dùng phương cách thiền chánh niệm và tỉnh thức để thanh lọc các hoạt động của tình thức cho trong sạch, tạo ra một trạng thái lắng tâm, một trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc, rồi cho là đã khám phá tính vô ngã của ngũ uẩn, và cho đây là thật ngã. Thật ra, đây là một sự nhầm lẫn đáng tiếc cho chính hành giả đó.

Lại nữa, đối với “Sự sống đạo”, vấn đề không phải là còn tình thức hay hết tình thức, cũng không phải là tâm thức phải trong sạch hay đang còn bị ô nhiễm, mà trong sự sống đạo. Chúng ta cần phải hiểu là mọi động niệm lăng xăng vọng khởi đều là “trạng thái động” của tâm, còn gọi là sanh tử. Và sự tịch tĩnh vắng lặng an lạc cũng chỉ là một “trạng thái tịnh” của tâm, còn gọi là Niết bàn. Chính vì vậy mà “động” hay “tịnh”, “sanh tử” hay “niết bàn”, thì cũng chỉ là hai trạng thái của tâm mà thôi. Về điều này, chư Tổ nói: “Niết bàn, sanh tử thị không hoa” (Niết bàn sanh tử giống như hoa đóm giữa hư không). Thật ra, khi mắt chúng ta bị nhậm nên cho là thật, khi mắt ta sáng thì động hay tịnh, sanh tử hay Niết bàn, thì cả hai cũng chỉ là hoa đóm, đều là cảnh từ tâm tạo.

Chư tổ thường khuyến cáo hàng hậu học là không nên nhận lầm cảnh là tâm, cũng không sợ vọng tưởng, cũng không trừ vọng tưởng, mà chỉ cần sáng suốt rõ biết các pháp như mộng huyễn, bởi nó vốn vô thường, vô ngã. Vì thế, kinh nói: “Không sợ vọng khởi, chỉ sợ giác chậm”. Lý đạo cho thấy, chỉ sợ người học Phật không có kiến giải chơn chánh, chứ không sợ vọng tưởng tình thức. Khi có kiến giải chơn chánh, thì không còn lầm lẫn do cái thấy bởi tình thức vọng tưởng.

Trong “Sự sống đạo”, hành giả nhất thiết cần lưu ý, vấn đề ở chỗ là “không dấy khởi động niệm hay tình thức vọng tưởng mà thấy các pháp như huyễn” (tức sáng suốt thấy rõ các pháp), chứ không phải “thấy chỗ không động niệm tình thức vọng tưởng”. “Sự sống đạo” sáng suốt là như vậy. Hàm dưỡng sống đạo thì tình vọng phan duyên tự tiêu, chứ không phải là đem tâm diệt trừ tình thức vọng tưởng. Hàm dưỡng sống đạo cũng gọi là thuần nhất không tạp, cũng gọi là nuôi dưỡng thánh thai, cũng gọi là bảo nhậm.

Trong “Sự sống đạo”, dẫu rằng “tất cả pháp vô ngã”, nhưng sự sống đạo đúng đắn đã chỉ ra cho chúng ta thấy rõ là mỗi sự mỗi việc đều có giá trị riêng của nó. Như giữ giới tụng kinh, ngồi thiền, thì có vai trò vị trí và lợi ích của tụng kinh, ngồi thiền. Hay như ăn cơm, uống nước, tiểu tiện, đại tiện, thì cũng có vai trò vị trí và lợi ích của nó. Và các pháp khác cũng vậy. Bởi, chỉ tụng kinh tọa thiền mà không ăn cơm uống nước, thì cũng không ổn. Thật ra, các pháp vốn bất đại bất tiểu, bất cấu bất tịnh. Trong chánh niệm và trên tình thần vô ngã, thì chẳng có cái nào có giá trị hơn cái nào, chẳng việc nào là đại sự, cũng chẳng việc nào là tiểu tiết cả, mà tất cả đều bình đẳng, đều mang tính đặc thù và đều có những giá trị riêng của nó. Hành giả có được sự sống vô ngã không phân biệt bằng tâm ý thức và ở trong sự sáng suốt thuần tịnh sẽ hiểu biết điều này một cách thấu đáo. Như vậy, hành trình vô ngã là hành trình đặc biệt, vì nó không có bất kỳ một lộ trình nào ngoài ánh sáng tuệ giác. Tuy nhiên, đối với người mới gieo duyên, thì hành trình vô ngã là hành trình bắt đầu từ nhận thức về bản chất vô ngã của ngũ uẩn, rồi từ sự sống có ý thức đối với nhận thức này, và bằng sự sáng suốt có trí tuệ và chánh kiến ứng dụng sự hiểu biết đó vào trong sinh hoạt đời sống hằng ngày. Đây gọi là “Như lý tác ý” cho sự khởi đầu trên hành trình vô ngã.

Lại nữa, chúng ta thường có khái niệm “vị kỷ” là vì mình, và “vị tha” là vì mọi người. Theo đó, đối với người học Phật thì mỗi hành vi, cử chỉ, mỗi lời nói việc làm đòi hỏi phải thực hiện lối sống vô ngã, khắc phục từng bước lối sống vị kỷ và không vì lợi ích cá nhân, thì mới có thể hành xử công minh, đem lại lợi ích cho bản thân trên tiến trình tu học. Và “hành trình vô ngã” chính là “Sự sống đạo” tương ưng với chân lý giác ngộ giải thoát, tức lý sự tương ưng.

Mục đích của sự tu theo Phật pháp là trở về tự tánh. Đây là cách nói tổng thể mang ý nghĩa định hướng chung cho tất cả người học Phật. Nhưng một khi đã khẳng định hướng đi là như vậy, thì mục đích (cũng là mục tiêu) của người học Phật chính là sự sống vô ngã. Cụ thể hơn, đó là sự sáng suốt làm chủ ngũ uẩn, làm chủ xác thân tứ đại trước khi nó đến thời hoại diệt. Vì, nếu như chúng ta không sáng suốt, không đạt được một sự sống vô ngã có định lực để làm chủ mọi trạng huống, thì chắc chắn chúng ta sẽ rối loạn hoảng sợ trong quá trình diễn ra sự phân hóa hoại diệt của tứ đại. Tất nhiên là khi đó chúng ta sẽ bị nghiệp lực dẫn dắt. Chính vì vậy mà chúng ta cần buông bỏ chấp ngã và chấp pháp để giải trừ phiền não chướng và sở tri chướng.

Thế nhưng, chúng ta làm cách nào để buông bỏ chấp trước, hay triệt tiêu bản ngã, trong khi sự buông bỏ cũng xuất phát từ cái bản ngã vẫn đang tồn tại, và tồn tại ngay trong sự buông bỏ đó. Ở đây, chúng tôi mạo muội nêu ra vài gợi ý để người học Phật qua đó tiếp cận “Sự sống đạo” trên hành trình vô ngã.

Thứ nhất, nhận diện bản ngã thông qua những biểu hiện tính khí bất thường của bản thân. Trong thực tế đời sống sinh hoạt, chúng ta cần hiểu và thường xuyên nhận diện rõ “Tánh” và “Khí” nơi bản thân mỗi chúng ta. Chẳng hạn, như “Tánh nóng giận, tánh tham lam…”, hay “Khí lượng tiểu nhân hẹp hòi…”. Nói chung, đó là “Tánh khí” của con người. Và đây là nghiệp quả. Nghiệp quả này được thể hiện qua tập khí, thói quen, tánh tình, cũng gọi đó là chủng tử hiện hành, cũng chính là gông cùm kiết sử.

Thứ hai, người học Phật cần để tâm nơi Ý và Thức biến. Vì đây là “nghiệp nhân” hiện tại. Nó tương tục và không ngừng phát triển, thể hiện qua phan duyên, vọng khởi, vọng tưởng, diêu động.

Thứ ba, nếu xu hướng chơn tâm qua sự sống vô ngã, thì người học Phật cần tỉnh táo. “Chơn tâm” ở đây chỉ là danh xưng gượng chỉ về sự xa lìa Tánh khí và Ý thức như vừa nêu trên, chứ không nên đặt để là có một cái “chơn tâm” để ta xu hướng đến rồi an trú vào đó. Nói một cách khác dễ hiểu hơn: Khi chúng ta phan duyên chạy theo sắc trần, hoặc sống trong Ý thức và trong Tánh khí bị chúng làm hệ lụy, thì gọi là bệnh của phàm nhân. Khi chúng ta trụ vào trạng thái tĩnh lặng sáng suốt của cái gọi là tâm chơn, thì đây thuộc về bệnh của thánh hiền. Còn tâm sáng suốt không trụ vào đâu hết, tâm đó không bệnh, gượng đặt cho nó một cái tên gì đó, chẳng hạn là “Chơn tâm”, “Chơn như”, “Tự tánh”, “Phật tánh”, hay “Chơn không diệu hữu”… Và dù nó không mang một cái tên nào cả, thì nó vẫn thường hằng linh diệu.

Xét về phương tiện hành sự, hành giả muốn “tịnh”, thì không sanh khởi. Muốn “ổn định”, thì phải trụ tâm một chỗ để tịnh hóa tâm thức và tiêu trừ tập khí. Đặc biệt là phải một bề làm chủ để lèo lái thói quen, để không dính mắc trần cảnh, cũng là để lọc sạch bụi trần tình thức lăng xăng, phan duyên, vọng động.

Nhưng một khi trực chỉ lý tánh, thì, nếu như muốn “Chơn”, ngay khi có ý muốn “Chơn” đã là “Vọng”, ngay khi có ý muốn “Giác” thì đã là “Mê”. Ví muốn, vì khởi tâm, khởi ý thảy đều là vọng. Đó là gốc rễ của “Vô minh”. Chư tổ dạy: “Dục trì phiền não trùng tăng bệnh. Thú hướng chơn như tổng thị tà”. Đây là chỗ uyên áo của lý đạo. Và là “Sự sống đạo” đích thực của hành giả trên hành trình vô ngã. `

Nhưng, nếu như chưa hội đủ nhân duyên để sự sống trực chỉ lý tánh, thì chúng ta chỉ nên làm một việc đơn giản là lặng lẽ. Chuyên cần lặng lẽ. Lặng lẽ mà sáng suốt, nhất là trong hằng dụng đừng để rơi vào ngoan không, cũng đừng để rơi vào trạng thái nghiệp thức mang mang. Chúng ta cần sáng suốt một bề làm chủ tâm thức, đừng để cho thức tâm làm chủ sai khiến. Và trong sự sáng suốt làm chủ đó mà tùy thuận trì chú, tụng kinh, hay lễ Phật sám hối, hay thừa hành các Phật sự. Trong hành dụng này, tự nó hàm dưỡng xu hướng khai sáng nguồn tâm. Ngoài điều này ra, thì không quan tâm bất cứ điều gì khác. Đây gọi là chúng ta đang chuyển pháp, chứ không phải bị pháp chuyển như khi chưa khai thông lý đạo.

Thẳng tắt của “Sự sống đạo” sẽ được thể hiện qua lời Cư sĩ Duy Ma Cật đối đáp các vị Bồ tát đến thăm bệnh như sau: “Chỉ để một giường bệnh nằm dụ cho tâm không khởi, hôm nay bệnh, hết phan duyên dứt, vọng tưởng tiêu, tức Bồ Đề”. Theo lời ngài Duy Ma Cật, dạy thì rốt ráo của sự sống đạo chỉ là “muôn duyên thôi nghỉ một niệm chẳng sanh”. Nói rõ hơn, trong tứ oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều không vọng khởi, dù tiếp duyên hay không tiếp duyên cũng đều không khởi, mọi sinh hoạt hằng ngày đều không khởi. Không khởi, thì không mong cầu. Không mong cầu, thì không sở đắc. Không đắc thất thành bại, thì không sanh tâm lo sợ. Cho nên Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở úy” là vậy.

Trên hành trình vô ngã, mọi hành giả đều phải vững lý tánh, phải thông lý tánh. Phải có định lực trên cơ sở thông lý tánh, thì lý sự mới tương ưng trong từng sự việc. Tiến trình là như vậy, đối với người học Phật, dù đã có nhận thức, đã sống có ý thức rất cao với những điều đã nhận thức, song muốn thành công thì phải luôn luôn hết sức sáng suốt tỉnh táo làm chủ tâm mình, nhất là cần phải có ý chí và sự kiên định sống đạo thì mới có thể hiện thực hóa những điều đã hiểu biết đi vào sự sống.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý, vấn đề “ý chí và kiên định” ở đây không phải là sự cố gắng tác ý tập trung tinh thần, mà “ý chí và kiên định” đó chính là sự “thuần nhất không tạp”. Như Thiền sư Triệu Châu đã tự nói về mình: “Ta trong suốt hai mươi năm rặt ròng thuần nhất không tạp, chỉ trừ hai thời cơm cháo mới tạp dụng tâm, cho nên mới được thọ dụng như ngày hôm nay5. Cảnh giới này chính là câu nói “Bình thường tâm thị đạo” mà chúng ta thường nghe trong nhà thiền. Bình thường tâm, tức là không tạo tác phan duyên chạy theo trần cảnh, cũng không sanh tâm xa rời vọng nghiệp hay thú hướng chân như, mà đơn giản chỉ là “muôn duyên thôi nghỉ, một niệm không sanh” và “thuần nhất không tạp”…

 


1. Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, đời Diêu Tần, Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Hán dịch. Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Việt dịch.

2. Nhị Không là Nhơn Vô Ngã và Pháp Vô Ngã.

3. Bích Nham Lục, tác giả Thiền sư Viên Ngộ, Hòa thượng Thích Thanh Từ, Việt dịch.

4. Trung Bộ Kinh - Kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddūpama Sutta).

5. Triệu Châu Ngữ Lục, Hòa thượng Thích Duy Lực, Việt dịch.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 61)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Thùy Dương
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 60)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Ẩm Túy
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 59)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 57
    • Số lượt truy cập : 8981558