Thông tin

VAI TRÒ CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

TRONG TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH

VÌ ĐỘC LẬP TỰ DO DÂN TỘC

 

Hòa thượng THÍCH THIỆN XUÂN*
Trưởng BTS GHPGVN Quận Tân Phú, TP.HCM

 

1. Dẫn nhập

Đạo Phật đến với dân tộc ta từ ngàn xưa khi còn tên là đất Giao Châu vào khoảng giữa thế kỷ thứ II Tây lịch. Xuyên suốt quá trình lịch sử hơn 2000 năm, Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền với dân tộc, lấy đạo đức làm căn bản, lấy tình thương làm lẽ sống, hòa hợp và đoàn kết giữa đạo và đời qua mọi thời kỳ thịnh suy của đất nước. Thời đại phong kiến đã có nhiều vị thiền sư là Quốc sư, góp phần hộ quốc an dân, đưa đất nước thời bấy giờ thành một quốc gia hưng thịnh. Thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều Tăng, Ni, Phật tử nối tiếp tinh thần yêu nước của các vị tiền bối theo tiếng gọi của mặt trận Việt Minh tham gia khởi nghĩa, góp phần đưa cách mạng thẳng đến thành công.

Trong các phong trào đấu tranh bảo vệ tổ quốc, vai trò và vị trí của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam nói riêng luôn thể hiện tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc qua các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đồng thời nêu cao tinh thần truyền thống đấu tranh vì độc lập tự do dân tộc…

Trong khuôn khổ bài tham luận này, chúng tôi xin đề cập đến vai trò của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, cụ thể là chư vị tôn túc lãnh đạo Giáo hội qua các thời kỳ trong phong trào đấu tranh vì độc lập tự do dân tộc Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như công cuộc vận động thống nhất Phật giáo...

2. Duyên khởi

Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam, tên gọi đầy đủ là Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử, hay còn gọi Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Lục Hòa Tăng. Có nhiều tên gọi như vậy, vì tiền thân Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam là Giáo hội Lục Hòa Tăng và Giáo hội Lục Hòa Phật tử. Trong bối cảnh thời cuộc tại miền Nam Việt Nam, sau cuộc đảo chánh lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, chính quyền mới của Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục kiềm kẹp, khủng bố và đàn áp; cùng với việc mua chuộc, phân hóa, ám hại các lãnh tụ phong trào chống đối chính quyền, tăng cường đánh phá các trung tâm Phật giáo thân kháng chiến…

Trước tình thế khó khăn, Giáo hội Lục Hòa Tăng và Giáo hội Lục Hòa Phật tử - tổ chức Phật giáo yêu nước luôn bị chính quyền theo dõi. Cho nên, khi hiến chương được soạn thảo và sau mấy tháng vận động vào đầu năm 1969 (Kỷ Dậu), dưới sự chủ trì của các Hòa thượng Thích Minh Đức, Hòa thượng Thích Huệ Thành, Hòa thượng Thích Thành Đạo, Hòa thượng Thích Bửu Ý… chính thức tiến hành Đại hội hiệp nhất hai Giáo hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử, cho ra đời Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam, được chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ do Thủ tướng Trần Văn Hương phê chuẩn.

Lúc bấy giờ, Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam thành lập lưỡng viện, gồm Viện Tăng thống và Viện Hoằng đạo, với tầm hoạt động trải rộng 37 Tỉnh/ Thành hội, 81 Quận/Huyện hội với 2000 ngôi chùa, tự viện và hệ phái; có khoảng hơn 10.700 Tăng Ni và trên 200.000 tín đồ Phật tử. Viện Tăng thống do Hòa thượng Thích Huệ Thành làm Tăng thống trụ sở đặt tại chùa Trường Thạnh, số 97 đường Bác sĩ Yersin, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Viện Hoằng đạo do Hòa thượng Thích Minh Đức làm Viện trưởng, Văn phòng đặt tại chùa Thiên Tôn, số 117/9 đường An Bình, quận 5, TP.HCM). Bên cạnh tổ chức Giáo hội lưỡng viện, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam thành lập Phật học đường Lục Hòa tại chùa Giác Viên, trường Tư thục Lục Hòa tại chùa Giác Lâm, chùa Thiên Tôn và Tiểu học ở chùa Lộc Uyển, chùa Thiên Trường (Q.8) để đào tạo Tăng tài, truyền thừa mạng mạch Phật pháp và hệ phái, tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức. Đồng thời xuất bản ra tạp chí Phật học Lục Hòa do Hòa thượng Thích Thành Đạo làm chủ nhiệm.

Từ ngày thành lập, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam luôn đồng hành đạo pháp và dân tộc trong phong trào đấu tranh kỳ thị tôn giáo; cùng tham gia mặt trận đấu tranh chống Mỹ cứu nước một cách rộng rãi và hiệu quả. Thật sự, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam có một vai trò và vị trí trong truyền thống tôn giáo và dân tộc.

3. Vai trò và vị trí của Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam

3.1 Phong trào đấu tranh Phật giáo

a. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

Bằng ý đồ bành trướng xâm lược của thực dân Pháp, ngày 23/9/1945, Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định rồi lan ra cả Nam Kỳ. Đáp lời sông núi, lúc bấy giờ Tăng, Ni không ai bảo ai, người thì xếp áo cà sa mặc chiến bào tham gia kháng chiến, người ở lại hậu phương lo vận động nhân tài, vật lực ủng hộ tiền tuyến. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra quyết liệt, lúc bấy giờ các cơ sở tổ chức Phật giáo cứu quốc xã, huyện, tỉnh, thành phố phát triển đều khắp. Cụ thể như: Năm 1947, Hòa thượng Pháp Long cùng cư sĩ Hoàng Minh thỉnh Hòa thượng Thích Minh Nguyệt (hiệu Tam Không) phối hợp với các vị Hòa thượng và cư sĩ ra chiến khu Đồng Tháp Mười thành lập Ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam Bộ, gồm có các vị: Hòa thượng Thích Minh Nguyệt làm Hội Trưởng, Hòa thượng Huệ Thành làm Phó Hội trưởng và ông Commis Hai làm Phó Hội trưởng, ông Đào Không làm Tổng Thư ký; các ông Lê Hoàng Minh làm Ủy viên tuyên huấn, Thượng tọa Bửu Thiện làm Ủy viên thủ quỹ, ông Thiện Sĩ làm Ủy viên xã hội, Hòa thượng Thích Pháp Tràng và ông Huệ Phương làm Ủy viên kiểm soát, ông Thiện Lý làm Ủy viên liên lạc. Ngoài ra còn có Ủy viên của 21 tỉnh và thành phố, trong đó có quý Hòa thượng Thích Bửu Ý, Thích Pháp Dõng, Thích Trí Long… Văn phòng Trung ương đặt tại chùa Ô Môi, xã Mỹ Quý, tỉnh Đồng Tháp Mười (nay là chùa Thanh Long, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ xuất bản tờ báo Tinh Tấn, sư Tam Không làm chủ nhiệm, giáo sư Lê Văn Đông (bút hiệu Trọng Thư - La Kim Trọng) làm chủ bút, cơ quan báo và in đóng tại chùa Tổ, xã Mỹ Tho (Đồng Tháp).

Trong khi đó, tại Sài Gòn, Phật giáo hình thành các tổ chức đấu tranh chính trị chống thực dân Pháp, bảo vệ đạo Phật, ra sức vận động, đóng góp, ủng hộ tiền bạc, thuốc men, giấy mực, máy đánh chữ cho kháng chiến. Nhiều Tăng Ni đã chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh… Đến năm 1949, thực hiện yêu cầu chính trị, xứ ủy chỉ đạo Phật giáo cứu quốc Nam Bộ chuyển hướng tổ chức, nên Phật giáo cứu quốc Nam Bộ tuyên bố tự giải tán tổ chức, chỉ để lại đại diện Phật giáo trong các cấp Mặt trận Liên Việt. Năm 1952, Phật giáo cứu quốc chuyển ra công khai mở hội nghị tại chùa Long An, số 136 đường Cộng Hòa (Sài Gòn) có mặt quý vị Hòa thượng danh đức khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định để thành lập Giáo hội Lục Hòa Tăng Việt Nam vào tháng 2 năm 1952 và bầu ra Ban Trị sự Hội gồm các vị như Hòa thượng Thiện Tòng chùa Trường Thạnh làm Tăng trưởng; Hòa thượng Pháp Nhạc chùa Long An làm Phó Tăng trưởng; Hòa thượng Thành Đạo chùa Phật Ấn làm Tăng giám; Hòa thượng Minh Đức chùa Thiên Tôn làm Phó Tăng giám; Thượng tọa Huệ Chí làm Tổng Thư ký; đạo hữu Đoàn Trung Còn làm thủ quỹ; cùng với Ban Hoằng pháp có quý Hòa thượng Pháp Lan chùa Khánh Hưng và Hòa thượng Huệ Thành chùa Long Thiền; ngoài ra còn có 09 ủy viên gồm các vị Hòa thượng ở nội ngoại thành; văn phòng Trung ương Giáo hội đặt tại chùa Trường Thạnh số 97 đường Yersin, Sài Gòn, đồng thời mở Phật học đường cạnh chùa Giác Viên và xuất bản tờ tạp chí Phật Học.

Đến năm 1953, bộ phận trí vận bị bể, các vị cư sĩ Thanh Đạm, Lê Văn Đồng và Lê Hoàng Minh bị bắt có liên quan đến hoạt động chính trị của lãnh đạo Giáo hội Lục Hòa Tăng và Giáo hội Lục Hòa Phật tử. Cũng trong thời gian này, cuộc kháng chiến chống Pháp đang giành được thắng lợi lớn, chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, thực dân Pháp muốn đánh lạc hướng sự chú ý của đồng bào cả nước nên tại Sài Gòn, chúng tổ chức hội chợ tại vườn thú nhưng không ngờ cầu Thị Nghè bị sập làm nhiều người đi coi hội chợ bị chết đuối; chớp thời cơ, Ban Trị sự Giáo hội Lục Hòa Phật tử lúc bấy giờ Hòa thượng Minh Thành làm Chánh Hội trưởng, Hòa thượng Thiện Hào làm Phó Hội trưởng và Thượng tọa Minh Giác làm Tổng Thư ký (trụ sở đặt tại chùa Long Vân) đã làm đơn xin phép làm lễ cầu siêu cho đồng bào tử nạn, làm lễ lộ thiên tại cầu để đọc văn tế tố cáo chúng, vạch trần âm mưu lừa mị vơ vét không coi trọng mạng người và phát động quần chúng đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng, nhưng sau đó giặc Pháp biết được nên đến giờ chót tên quận trưởng đến rút giấy phép và ra lệnh chỉ được cử hành lễ tại chùa.

Năm 1954, Pháp ký hiệp ước PAU nhượng bộ Mỹ hoàn toàn cho đến tháng 06 năm 1956, toàn bộ quân viễn chinh Pháp rút khỏi miền Nam để bắt đầu sự xâm lược trực tiếp của đế quốc Mỹ vào đất nước ta.

b. Thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ

Năm 1954, Mỹ-Diệm đã mở chiến dịch đưa gần một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, lúc bấy giờ Sài Gòn - Chợ Lớn có khoảng 2 triệu dân, được Mỹ - Diệm xây dựng thành thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Về chính trị, Sài Gòn là nơi tập trung bộ máy thống trị của Mỹ cũng là nơi hội tụ các hoạt động của các tôn giáo, đảng phái, làm cho Sài Gòn đã phức tạp, càng thêm phức tạp. Chỉ kể riêng các hệ phái Phật giáo tại Sài Gòn - Gia Định nói riêng và toàn miền Nam nói chung lên đến vài chục tổ chức, như Giáo hội Tăng già Nguyên thủy của Hòa thượng Thích Giới Nghiêm; Giáo hội Tăng già Nam Việt của quý Hòa thượng Trí Tịnh, Thiện Hòa, Thiện Hoa; Giáo hội Lục Hòa Phật tử của Hòa thượng Minh Thành và Hòa thượng Thiện Hào; Giáo hội Lục Hòa Tăng Việt Nam của Hòa thượng Thiện Tòng và Thành Đạo; Giáo hội Thiền Tịnh Đạo Tràng của nhị vị Hòa thượng Pháp Triều và Minh Trực; Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu Hội của Tổ Huệ Đăng; Hội Phật học Nam Việt của ông Mai Thọ Truyền; Phật giáo Nguyên Thủy của Hòa thượng Bửu Chơn và Nguyễn Văn Điêu; Hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam do Minh Đăng Quang sáng lập, trong Hội Tăng già Khất sĩ Nam Việt đã phát sinh các nhánh như nhánh Giác Huệ chùa Lộc Uyển (quận 6), nhánh Giác Nhiên ở Tịnh xá Trung tâm (Bình Thạnh), nhánh Ni giới Khất sĩ của Ni sư Huỳnh Liên ở tịnh xá Ngọc Phương; Giáo hội Cổ Sơn Môn của Hòa thượng Trí Hưng; Thiên Thai Giáo Quán Tông của Hòa thượng Đạt Pháp; Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam của Đoàn Trung Còn; Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội của Sư cụ Minh Trí; Giáo hội Hồng Môn Minh Đạo của bà Hồng Tâm Trúc Lâm Nương và Thanh Quang; Giáo hội Phật giáo Hoa Tông của Hòa thượng Siêu Trần và Phước Quang; Giáo hội Tăng già Trung Việt của Hòa thượng Trí Thủ (chùa Già Lam); Giáo hội Tăng già Bắc Việt của Thượng tọa Tâm Giác (chùa Vĩnh Nghiêm); Giáo hội Phật giáo xã hội của Hòa thượng Trí Dũng (chùa Nam Thiên Nhứt Trụ); Giáo hội Phật giáo Việt Nam Trung phần của Thượng tọa Đức Tân; Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt của Vũ Bảo Vinh; Ủy ban Liên Hiệp thuần túy Phật giáo của Hòa thượng Nhựt Minh; Phật giáo Nam Tông của bà con ở Campuchia (Toàn miền Nam có 500 ngôi chùa và trên 3 triệu tín đồ gồm các hệ phái này); Phái Maranikay của Thạch In, chùa Bồ Đề (đường Dương Bá Trạc); Phái Thérévada của Kim Cang, trụ sở Trung ương đặt tại chùa Thérévada (đường Trương Minh Giảng); Phái Khemaranykay của Lâm Em, trụ sở Trung ương đặt tại chùa Chantaranikay; Giáo phái Thérévada của Sơn Thái Nguyên. Ngoài ra còn có môn đồ Phật Thầy Tây An thành lập các phái như: Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của Nguyễn Long Châu, Nguyễn Long Giao (núi Tượng); Giáo hội Bửu Sơn Kỳ Hương của Nguyễn Tất Đắc; Phật giáo Hòa Hảo của Huỳnh Phú Sổ...

Trước tình hình đa Giáo hội, hệ phái Phật giáo nên xảy ra nhiều khuynh hướng chính trị phức tạp, đòi hỏi việc tận dụng sách lược vận động tôn giáo phải hết sức khéo léo, nhuần nhuyễn cho từng đối tượng. Lúc bấy giờ, Giáo hội Lục Hòa Tăng đã phát động Tăng Ni và tín đồ Phật tử tích cực tham gia phong trào đấu tranh đòi thả 8 chiến sĩ hòa bình, đòi Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Chư Tăng, Ni, Phật tử còn ký kiến nghị, rải truyền đơn, dán khẩu hiệu đòi thả tù chính trị, đòi hòa bình, hòa cùng phong trào đấu tranh sôi nổi quyết liệt, chư huynh đệ chùa Long Vân tổ chức nghe đài cách mạng, chép lại và in ra thành các bản tin đọc chậm trên đài giải phóng miền Nam, đồng thời phổ biến trong nội bộ Tăng già và Phật tử, hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử cách nghe đài Hà Nội.

Năm 1955, Hòa thượng Minh Nguyệt (Tam Không) và Hòa thượng Pháp Dõng cùng các Cư sĩ Tín Hải, Tín Tâm, Thiện Ngộ, Thiện Huệ móc nối với Giáo hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử hoạt động trở lại, phân công Thượng Tọa Minh Giác phụ trách chép lại tin trên đài tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Thủ đô Hà Nội rồi đọc chậm phổ biến trong nội thành.

Năm 1956 và năm 1957, hai anh Lê Hoàng Minh và Lê Thanh Đạm bị địch bắt, đến năm 1959 thì các anh Tín Hải, Tín Tâm, Thiện Ngộ cũng bị bắt và đày ra Côn Đảo, còn nhị vị Hòa thượng Minh Nguyệt và Thiện Hào nhờ bảo mật nên thoát được.

Đến năm 1960, cơ quan Xứ ủy và Đặc Khu ủy Sài gòn - Gia Định bị bể, cán bộ bị bắt, dẫn đến việc Hòa thượng Minh Nguyệt bị bắt, rồi quý Hòa thượng Thành Đạo, Huệ Chí, Minh Giác cũng bị bắt, chùa chiền bị khám xét, Trường Phật Học Lục Hòa Tăng bị đóng cửa, Phật Học tạp chí bị đình bản, nhà in bị tịch thu, chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ kêu án tù những người bị bắt từ 10 đến 20 năm tù rồi đày ra Côn Đảo.

Cũng trong năm 1960, cuộc đồng khởi ban đầu diễn ra tại Bến Tre sau đó bùng nổ nhanh chóng lan rộng trên toàn miền Nam đã làm sụp đổ hoàn toàn chiến lược chiến tranh thực dân kiểu mới và làm chính quyền Sài Gòn hết sức lúng túng, tình hình này đã tác động mạnh mẽ đến tình hình đấu tranh tại thành đô. Đến ngày 20 tháng 12 năm 1960, tại một vùng giải phóng thuộc tỉnh Tây Ninh, đại biểu các đoàn thể, tôn giáo và đảng phái, các dân tộc ở miền Nam Việt Nam, họp Đại hội thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hòa thượng Thích Thiện Hào khi đó đại diện Giáo hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử làm Phó Chủ tịch Mặt trận. Đại hội thông qua chương trình 10 điểm với nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của Mỹ và bọn tay sai gia đình trị Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một miền Nam Việt Nam hòa bình, trung lập dân chủ và phồn vinh tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc.

Ngày 2/1/1961, nhân dân và các đoàn thể tôn giáo tại Sài Gòn và vùng ven nhất loạt đình công, bãi chợ, xe cộ ngừng chạy, tiệm quán đóng cửa và tổ chức mitting quần chúng chào mừng mặt trận ra đời. Ngày 19/3/1961, Mặt trận dân tộc giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định ra đời do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, cử hành lễ ra mắt có hàng chục ngàn người lương cũng như giáo tham gia tại xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi làm nức lòng dân thành Phố nói chung, và các tôn giáo tiến bộ nói riêng, từ cao trào đồng khởi đến sự ra đời Mặt Trận đã đánh dấu sự phá sản bước đầu của chính sách thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Đến tháng 2/1962, Mỹ thành lập ở Sài Gòn bộ chỉ huy quân sự đặc biệt do tên tướng Mỹ là Pôn Hakin cầm đầu tại miền Nam Việt Nam, mở nhiều cuộc càn quét, đánh phá vào vùng giải phóng. Tại đô thị, Mỹ - Diệm tăng cường công an, mật vụ thành lập lữ đoàn phòng vệ phủ tổng thống để hòng duy trì chế độ độc tài, độc tôn, gia đình trị của Ngô Đình Diệm.

Năm 1963, hòa nhịp với chiến thắng Ấp Bắc (Tiền Giang) vang dội của quân giải phóng của tỉnh Mỹ Tho, theo đó, các phong trào đấu tranh của quần chúng tại Sài Gòn - Gia Định cũng dâng lên mạnh mẽ, nổi bật là phong trào đấu tranh của Phật giáo. Điển hình như cuộc biểu tình của đông đảo tính đồ Phật tử trong hai ngày 7 và 8/5/1963 đã bị Mỹ - Diệm đàn áp khủng bố dã man. Đến ngày 21/5/1963, có hơn 800 nhà sư xuống đường biểu tình tuần hành từ chùa Ấn Quang đến chùa Xá Lợi để phản đối Mỹ - Diệm đàn áp lễ Phật đản và hạ cờ Phật giáo ở Huế.

Ngày 11/6/1963, tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt (nay là ngã tư đường Cách mạng tháng 8 - Nguyễn Đình Chiểu), trước hàng vạn tín đồ Phật tử và chư Tăng, Ni niệm kinh cầu nguyện cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, đòi tự do tín ngưỡng, đòi bình đẳng tôn giáo. Đến ngày 16/6/1963, thực hiện lễ hỏa táng Hòa thượng Thích Quảng Đức, được sự chỉ đạo của tổ chức, Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Cổ truyền Việt Nam đã huy động và hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chung của Phật giáo, với trên 700 ngàn Phật tử tín đồ cùng đồng bào thành phố xuống đường biểu tình tố cáo Mỹ - Diệm, cuộc biểu tình xung đột với cảnh sát tới đàn áp làm náo động thành phố và gây tiếng vang rộng rãi trên thế giới. Ngày 30/6/1963, có trên 1000 chư Tăng, Ni đồng tuyệt thực để cầu nguyện cho đạo pháp khỏi đại nạn và phản đối chế độ độc tài Mỹ - Diệm, đến sáng sớm hôm sau, sinh viên học sinh xuống đường biểu tình kéo đến ngồi trước trụ sở Quốc hội chính quyền Sài Gòn để ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo.

Điều cần nói thêm ở đây, lúc bấy giờ chính quyền Ngô Đình Diệm, được sự ủng hộ của Phật giáo Cổ Sơn Môn của sư Trí Hưng và sự hiến kế chiến thuật nước lũ của Ủy ban Liên hiệp thuần túy Phật giáo, lúc đó ông Nhựt Minh đã cho người trà trộn vào nội bộ tổ chức đấu tranh của Phật giáo để do thám nắm bắt tình hình rồi báo cáo cho bà đốc Vinh, con gái ông Trần Nguyên Chấn, nên vào lúc 12 giờ khuya, rạng sáng ngày 21/8/1963, hai ông Diệm và Nhu ra lệnh tấn công các chùa trong thành phố, trong đó có chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi, chùa Giác Sanh, chùa Giác Minh, họ bắt hết chư Tăng Ni, đánh đập tàn nhẫn rồi đem giam ở Rạch Cát, phường Bình Đông (Q.7).

Đến sáng ngày 21 tháng 8/1963, phối hợp với cuộc đấu tranh của đồng bào Phật tử Huế, hàng ngàn học sinh sinh viên kéo đến phòng thông tin Mỹ tại Sài Gòn, ngày 24 tháng 8/1963, học sinh, sinh viên Sài Gòn bãi khóa, ngày 25/8/1963, chỉ trong 1 ngày mà có tới 6 cuộc mitting biểu tình của học sinh, sinh viên nổ ra tại nhiều địa điểm ở Sài Gòn – Gia Định, Diệm phải ra lệnh cho cảnh sát bắt giam hơn 2.000 sinh viên học sinh và bắt giữ 6 ngàn tín đồ Phật tử. Được tin Mỹ - Diệm đàn áp Phật giáo, tàn sát Phật tử ở miền Nam, làm cho đồng bào cả nước vô cùng phẩn nộ. Trước tình hình đấu tranh ngày càng dâng cao, lại hay tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu chống chế độ độc tài, đòi tự do tín ngưỡng, đòi bình đẵng tôn giáo, làm rúng động lòng người, nên đồng bào và Tăng, Ni, Phật tử toàn miền Bắc lúc bấy giờ được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Phật giáo tín ngưỡng Việt Nam lãnh đạo đã cử pháp sư Thích Trí Độ tổ chức cuộc míting lớn tại Hà Nội tuyên dương công đức của Hòa thượng Thích Quảng Đức hiến dâng nhục thể của mình làm ngọn đuốc thiêng chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, đòi tự do tín ngưỡng, bình đẵng tôn giáo, toàn thể cuộc mitting nghiêm khắc lên án, tố cáo với thế giới tội ác của Mỹ - Diệm ở miền Nam tiêu diệt Phật giáo, cuộc mitting quy mô này đã nhanh chóng được các nước xã hội chủ nghĩa, các phong trào độc lập, dân tộc hòa bình, dân chủ trên khắp thế giới lên tiếng ủng hộ và tổ chức meeting ủng hộ Việt Nam lên án Mỹ - Diệm.

Cũng trong khoảng thời gian này, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cử một phái đoàn Phật giáo do Hòa thượng Thích Thiện Hào dẫn đầu đi thăm và báo cáo với các nước Phật giáo châu Á về âm mưu thủ đoạn tiêu diệt Phật giáo của chế độ độc tài, độc tôn Mỹ - Diệm ở miền Nam đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước Phật giáo châu Á tổ chức cuộc họp tại Bắc Kinh, có 11 nước và khu vực đến tham dự nghe Hòa thượng Thiện Hào, Phó Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Tổng Thư ký Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng và Phật Hòa Phật tử đọc báo cáo kể rõ chủ trương tội ác của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm quyết tiêu diệt Phật giáo ở miền Nam, từ triệt hạ cờ Phật, chà đạp giáo quyền, đến đạp phá chùa chiền, đàn áp, khủng bố bắt bớ, tra tấn, tù đày chư Tăng, Ni, đồng bào Phật tử một cách tàn nhẫn, trong báo cáo cũng nêu lên những con số rất cụ thể như chỉ tính trong tháng 8/1963 chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm đã bắt giam 2000 sinh viên học sinh và 6000 tín đồ Phật tử, và liên tiếp bắt bớ tù đày các nhà sư yêu nước như Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, Hòa thượng Thành Đạo, ngoài ra chúng còn giết chết hơn 200 người, làm cho toàn thể hội nghị rất căm phẫn và nghiêm khắc lên án Mỹ - Diệm. Hội nghị ra nghị quyết gởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc yêu cầu gấp rút cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam điều tra về chánh sách kỳ thị tôn giáo, đàn áp Phật giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm, hội nghị còn ra lời kêu gọi các nước yêu chuộng hòa bình, công lý trên toàn thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam…

Sau cuộc đấu tranh thắng lợi, Tổng hội Phật giáo Việt Nam mà Hội chủ là Tăng thống Thích Tịnh Khiết được Mỹ và chế độ Sài Gòn nhân nhượng nhiều quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tổ chức quỹ trợ cấp của Hoa Kỳ đài thọ cho một bộ phận Tăng, Ni, Phật tử sang Mỹ du học. Tổng hội Phật giáo Việt Nam đã đứng ra triệu tập 11 hệ phái Phật giáo để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ ngày 20/8/1963 đến ngày 11/4/1964, Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được chính quyền Sài Gòn thời bấy giờ công nhận bởi sắc luật số 14/5 ngày 4/1/1964 và được tổ chức quỹ bảo trợ Mỹ kiến thiết lại Việt Nam Quốc tự, xây dựng Trường Đại học Vạn Hạnh, lập Nha Tuyên úy Phật giáo (tổ chức tôn giáo trong quân đội) mở ký nhi viên, thời kỳ này Phật giáo chiếm 34 ghế trong quốc hội.

Quay lại các hoạt động đấu tranh của Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam, kể từ năm 1965, tình hình chiến tranh Đông Dương càng trở nên quyết liệt, nhân dân Đông Dương đã thấy cần thiết phải đoàn kết nhau lại để chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia được triệu tập từ ngày 1 đến ngày 9/3/1965 tại thủ đô Nông Pênh (Campuchia), tại hội nghị này, Hòa thượng Thích Pháp Tràng của tổ chức Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam được cử làm đại biểu trong thành phần phái đoàn tham dự, cũng trong hội nghị này, bằng bài phát biểu của mình, Hòa thượng Thích Pháp Tràng đã làm tăng thêm tình đoàn kết Phật giáo ba nước Đông Dương, và cũng tại hội nghị này lần đầu tiên trong hoạt động quốc tế, Hòa thượng Thích Pháp Tràng đại diện cho hình ảnh của Giáo hội Lục Hòa Tăng Việt Nam nói lên tiếng nói chính nghĩa vì lợi ích dân tộc và vì nền hòa bình thịnh vượng của ba nước Đông Dương đã làm tăng uy tín và nâng cao mức độ ảnh hưởng của Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam trên trường quốc tế.

Đến năm 1969, sau thất bại của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chính quyền Sài Gòn phản kích ác liệt các phong trào chính trị đô thị tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, chúng âm mưu mua chuộc, phân hóa, ám hại lãnh tụ phong trào, làm suy yếu tan rã các tổ chức, trong đó mục tiêu đánh phá là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, mà đối tượng là Hòa thượng Thiện Hoa, tịnh xá Ngọc Phương bị phong tỏa nội bất xuất ngoại bất nhập. Trước tình hình diễn biến phức tạp trên, với yêu cầu bảo vệ cán bộ và giữ vững cơ sở, một số tổ chức đã được gây dựng lại, như Tổ nòng cốt Trung ương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam gồm có Hòa thượng Huệ Thành, ông Lê Hoàng Minh, Hòa thượng Bửu Ý, Hòa thượng Thiện Nghị; Tổ nòng cốt Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất gồm có Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Thiện Hòa và Thượng tọa Pháp Lan do Hòa thượng Thiện Hoa làm Tổ trưởng; Tổ nòng cốt Ni phái Khất sĩ có 3 vị, do Ni sư Huỳnh Liên là Tổ trưởng; Tổ nòng cốt Giáo hội Hoa tông Việt Nam gồm Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Ninh Hùng, Hòa thượng Tăng Đức Bổn do Hòa thượng Phước Quang làm Tổ trưởng. Điều đáng mừng là trong lúc này, khu căn cứ và trường lớp vẫn ổn định, đồng thời bộ phận tuyên huấn phụ trách bên nam giới vừa tiếp nhận Nghị quyết 18/NQ-TW của Trung ương cục do Tỉnh ủy Mỹ Tho phổ biến, nên vào tháng 3/1969, tổ chức lần lượt triệu tập các cán bộ nòng cốt trên về căn cứ học lớp bồi dưỡng 7 ngày với các tài liệu về “Tình hình nhiệm vụ, chính sách tôn giáo và 5 bước công tác cách mạng, công tác bí mật” để các Tổ trưởng và thành viên thấy hết âm mưu thâm độc của kẻ thù và nhằm nâng cao nhận thức đối với tầm quan trọng của công tác vận động và lãnh đạo quần chúng đô thị, nắm được những quan điểm và những vấn đề cơ bản về nội dung, phương châm, phương pháp đồng thời giải quyết những thiếu sót đã va vấp trong thời gian qua. Tăng cường tinh thần phục vụ quần chúng, từ đó mạnh dạn phát động quần chúng tập hợp lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh, nhất là xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ngày càng mạnh mẽ. Giải thích chính sách tôn giáo của chính quyền cách mạng, chống mê tín, tôn trọng chánh tín, thực hiện tự do tín ngưỡng, nói rõ âm mưu Mỹ - Ngụy lợi dụng tôn giáo, sử dụng hai khả năng thực hiện chính sách thực dân kiểu mới xâm lược Việt Nam, tiêu diệt tôn giáo. Quán triệt các yêu cầu trên để thực hiện mục đích xây dựng phát triển cơ sở thực lực mạnh mẽ đều khắp, làm thay đổi tương quan lực lượng trong các đô thị và thành phố để thực hiện mục tiêu, phương hướng cách mạng, đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Về kế hoạch tổ chức lớp học với yêu cầu, mục đích và bài giảng như trên, trong vùng địch thì do ông Lê Quốc Sử đảm nhận, hướng dẫn ở các chùa Long Khánh (Vĩnh Long), Giác Hoàng, Thiên Minh, Thiên Quang (Hóc Môn), Đức Lâm (Phú Thọ Hòa) cho quý vị Thiện Hòa, Thiện Hoa, Pháp Lan, Phước Quang, Ni sư Huỳnh Liên để tham dự, cũng nhằm để bảo vệ cương vị hợp pháp của các vị đó. Ngoài ra tổ chức còn mời Thượng tọa Giác An, Đại đức Bửu Minh, Đại đức Thiện Xuân, Đại đức Trí Huệ, Đại đức Thiện Lý tiếp tục về căn cứ bồi dưỡng khóa học 7 ngày. Cứ như vậy, bế mạc khóa này thì tiếp tục mở khóa khác cho các cán bộ công vận, trí vận, thanh niên sinh viên, học sinh, phụ nữ, Tăng, Ni về học để đào tạo cán bộ lãnh đạo phong trào tại chỗ. Qua thời gian học tập, số cán bộ này đã nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách, điều này như tiếp thêm năng lượng cho phong trào đấu tranh của Phật giáo phát triển rất mạnh mẽ.

Từ cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 đến 1972 nỗ lực thực hiện các chủ trương của cấp trên đã chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ và tạo thời cơ nên qua các phong trào đấu tranh chính trị, binh vận có kết hợp vũ trang, đã củng cố được các cơ sở Trung ương và địa phương, phát triển cả về lượng và chất. Theo đó, các hội nghị tại các căn cứ xã Bình Trưng, huyện Châu Thành Nam (Mỹ Tho) cũng được tổ chức tiến hành nhằm phổ biến nội dung yêu cầu, mục đích chiến dịch và các chỉ thị 08, 09 của thành ủy cho toàn thể cán bộ các đầu mối về dự, trong đó có quý Hòa thượng Pháp Lan, Thượng tọa Giác An, Thượng tọa Trí Huệ, Thượng tọa Huệ Hiền, Đại đức Bửu Minh, Đại đức Thiện Xuân, Đại đức Phước Dũng, Đại đức Hiệp Khánh, Đại đức Thiện Lý, Đại đức Huệ Xướng, Đại đức Định Huệ, Đại đức Định Đạt, Đại đức Hoài Phong, Đại đức Nguyên Minh, Đại đức Định Giác, Đại đức Định Châu, Đại đức Định An, Đại đức Phước Đạt và một số Cư sĩ Phật tử. Song song đó còn tổ chức hội nghị trong lòng địch tại các chùa như tại Viện Hoằng đạo (chùa Đức Lâm), chùa Thiên Quang, chùa Giác Hoàng, chùa Thiên Minh, chùa Long Thạnh, chùa Từ Đức, chùa Pháp Minh, chùa Thiên Trường, chùa Phổ Minh, chùa Thiên Phước (Sài Gòn - Gia Định), Long Khánh (Vĩnh Long), Hội Linh (Cần Thơ)… để phổ biến và quán triệt tinh thần nội dung, yêu cầu mục đích chiến dịch và nội dung các chỉ thị cho cán bộ đầu mối lãnh đạo các tổ chức hợp pháp như quý Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Huệ Thành, Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Bửu Ý, Hòa thượng Thiện Nghị, Hòa thượng Hồng Năng, Hòa thượng Thiện Phú, Hòa thượng Minh Nhuận, Hòa thượng Quảng Kim, Ni sư Huỳnh Liên, Ni Sư Ngoạt Liên, Ni Sư Diệu Đức, Bà Trúc Lâm Nương và các nghị sĩ như Trương Văn Long, kỹ sư Nguyễn Minh Phát, luật sư Võ Hoằng Bật, thầu khoán Đặng Hữu Nghi, Thanh Đạm, kỹ sư Lê Văn Mười, giáo sư Nguyễn Văn Cưng, đạo hữu Lê Hoàng Minh, bà Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Tấn Trí nghiệp đoàn nhà in, Nguyễn Văn Chù nghiệp đoàn ấn loát, Châu Văn Lộc nghiệp đoàn xe lam… Qua các cuộc hội nghị các nhóm đều nhất trí với nhận định tình hình của Trung ương Cục và Thành ủy, qua đó tất cả đều nghiêm túc tự kiểm điểm việc tổ chức thực hiện các chủ trương nghị quyết trong thời gian qua, thấy rõ ưu khuyết để phát huy và khắc phục, phấn khởi hạ quyết tâm chấp hành các chủ trương, nghị quyết mới đạt kết quả cao.

Cũng xin nhắc thêm về hoạt động đấu tranh vì độc lập – tự do dân tộc của Phật giáo Cổ truyền Việt Nam. Vào năm 1963, Hòa thượng Huệ Thành đã được sự chỉ đạo của tổ chức đã đứng ra cùng quý Hòa thượng thống nhất hai Giáo hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử thành lập nên Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, sửa đổi lại điều lệ để hình thành hiến chương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và nỗ lực hoạt động củng cố các tổ chức cơ sở hình thành hệ thống lãnh đạo từ Trung ương đến các tỉnh thành, quận, kết quả có 37 Tỉnh hội được củng cố và thành lập 81 Quận giáo hội và trên 2000 ngôi chùa, tự viện 10.750 Tăng, Ni, 20.500 đạo chúng và 285.000 tín đồ. Thành phần giáo phẩm lãnh đạo Thành hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam khu vực Sài Gòn - Gia Định gồm quý Hòa thượng danh đức như Hòa thượng Hồng Năng (chùa Pháp Minh quận 8), Hòa thượng Thiện Nghị (chùa Đức Lâm, Tân Bình), Hòa thượng Thiện Phú (chùa Giác Viên). Trụ sở thành hội đặt tại chùa Sùng Đức số 136 đường Hùng Vương Chợ Lớn.

Ban Đại diện Phật giáo liên tỉnh miền Đông Nam Bộ do HT Thích Trí Tấn - Chánh Thư ký Hội đồng Viện Tăng thống kiêm Chánh Đại diện. Văn phòng đặt tại Chùa Long Thiền xã Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.

Ban Đại diện Phật giáo Trung Phần do Hòa thượng Thích Bích Lâm - Phó Viện Trưởng Hoằng đạo đặc trách hành chánh kiêm Chánh Đại diện Phật giáo Trung phần. Sau khi Hòa thượng Thích Bích Lâm viên tịch, Hòa thượng Thích Trí Tâm làmTổng Thư ký kiêm Chánh Đại diện Phật giáo Trung Phần. Văn phòng đặt tại Tổ đình Nghĩa Phương, số 2 đường Lý Thánh Tôn, thành phố Nha Trang, Khánh Hòa.

Ban Đại diện Phật giáo liên tỉnh miền Tây Nam Bộ do HT Thích Huệ Đức làm Chánh Đại diện Phật giáo, văn phòng đặt tại chùa Già Lam, xã Phụng Hiệp, tỉnh Phong Dinh (nay là xã Phụng Hiệp, thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang).

Ban lãnh đạo Giáo hội còn xúc tiến việc hình thành các tổ chức quần chúng, đoàn thể gồm chư Tăng, Ni và Phật tử làm cơ sở vững mạnh cho Giáo hội như: Liên hiệp nghiệp đoàn lao động Phật tử thành lập ngày 1/3/1973 với thành phần Ban chấp hành gồm các vị như thầu khoán Nguyễn Minh Phát làm Chủ tịch, thầu khoán Đặng Hữu Nghi, luật sư Võ Hoằng Bật, doanh nghiệp La Duy Thạnh đồng làm Phó Chủ tịch, kỹ sư Nguyễn Trung Thành làm Tổng Thư ký; nữ doanh nhân Nguyễn Thị Khá làm Thủ quỹ và ông Lê Văn Mười làm Ủy viên kiểm soát, văn phòng trung ương đặt tại công trường tháp Xá Lợi, xã Phú Thọ Hòa (Tân Bình). Tổng đoàn thanh niên Tăng Ni, Ban chấp hành gồm: Đại đức Thích Hồng Khoa và Đại đức Thích Thiện Xuân đồng làm Chủ tịch; Đại đức Thích Nhựt Huy và Đại đức Thích Nhựt Hoa cùng làm Phó Chủ tịch; Đại đức Thích Giác Tịnh làm Tổng Thư ký; Đại đức Thích Huệ Xướng làm Ủy viên báo chí; Đại đức Thích Bửu Minh làm Ủy viên tài chính và Đại đức Thích Phước Dũng làm phát ngôn viên. Văn phòng đặt tại chùa Thiên Tôn số 117/9 đường An Bình (Chợ Lớn). Tổng đoàn thanh niên Tăng, Ni có khoảng 2.114 Tăng, Ni trẻ… Liên đoàn thanh thiếu niên, sinh viên học sinh Phật tử thành lập ngày 20/10/1973, văn phòng đặt tại Trường Tiểu học Lục Hòa, đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình, với thành phần lãnh đạo gồm các vị như: Đại đức Thiện Xuân làm Chủ tịch; Đại đức Huệ Sanh và Đại đức Bửu Thiên cùng làm Phó Chủ tịch; Đại đức Huệ Xướng làm Tổng Thư ký; Đại đức Thiện Đạo làm thủ quỹ; Đại đức Phước Dũng làm phát ngôn viên, với các vị Ủy viên như Đại đức Định Huệ làm Ủy viên xã hội; cư sĩ Quảng Tiến làm Ủy viên tổ chức và Hòa thượng Hiệp Khánh làm Ủy viên kiểm soát. Hệ thống tổ chức bao gồm các Trường Tiểu học Lục Hòa tại xã Phú Thọ Hòa (Tân Bình) và chùa Thiên Trường (quận 8), chùa Lộc Uyển (quận 8), chùa Giác Lâm (Tân Bình)…

Năm 1974, một số binh lính và cảnh sát của quận Lợi thi hành lệnh của Đỗ Kiến Nhiễu đuổi trên 100 hộ dân lao động chúng nghi là nuôi giấu cán bộ kháng chiến ở khóm 9, phường Rạch Ông (quận 8) ra khỏi nhà cửa, để hỗ trợ đắc lực cho bà con địa phương đấu tranh chống lại bọn chúng. Tổ Trung ương của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam gồm có quý Hòa thượng Hồng Năng, Thượng tọa Giác An, Thượng tọa Trí Huệ; cùng với hơn 100 đại biểu đoàn thể hội viên mở Hội nghị tại chùa Lộc Uyển nghe Đại đức Phước Dũng báo cáo tình hình chiến tranh Mỹ - Thiệu tàn phá vùng này, báo cáo có đoạn: “Bà con nhân dân ta vừa ổn định cuộc sống thì chính quyền quận Lợi đã ra lệnh đuổi người, cướp đất, cướp nhà của dân, gây cảnh tang thương khốn khổ cho đồng bào nên hội nghị phải đồng thanh biểu quyết” và “Nay hiệp định Paris về Việt Nam đã ký kết nhưng Mỹ - Thiệu vẫn ra sức phá hoại nghiêm trọng, tiếp tục kéo dài chiến tranh gây ra cảnh chết chóc đau thương, nhà tan cửa nát, vơ vét, bần cùng hóa nhân dân. Vì vậy, phải kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ - Thiệu phải chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, thi hành điều 11 trong Hiệp định Paris và các quyền tự do dân chủ như tự do cá nhân, tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tổ chức, tự do đi lại, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do làm ăn sinh sống, khẳng định quyền sở hữu tài sản”… Sau đó tinh thần hội nghị đã được thực hiện bằng các cuộc xuống đường phản kháng mãnh liệt, trước sự kiên quyết đấu tranh của bà con nhân dân nên Đỗ Kiến Nhiễu – Đô Trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn và chính quyền quận 8 phải tức khắc hủy bỏ lệnh giải tỏa nhà tại tiểu khu B, khóm 9, phường Rạch Ông, quận 8. Sau hội nghị này, Hòa thượng Bửu Ý, nhân danh Viện trưởng Viện Hoằng đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam ra tuyên bố tố cáo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chính quyền Quận 8 vi phạm tự do tín ngưỡng, đuổi sư sãi tại hai chùa Bình An và chùa Lộc Uyển của Giáo hội để cướp đất là tội ác dã man cần phải chấm dứt ngay.

Đến ngày 27/3/1975, Ban lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam họp bất thường dưới sự chủ trì của Hòa thượng Tăng thống Thích Huệ Thành, ở số 97 đường Yersin (Sài Gòn) để kiểm điểm tình hình và tuyên bố hoan nghênh, ủng hộ Hiệp định Paris về Việt Nam ký kết ngày 27/1/1973, vì đây là căn bản để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trong cuộc họp bất thường này tuyên bố nêu rõ: “Mọi thủ đoạn và âm mưu chống lại Hiệp định Paris của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ ủng hộ đã làm cho chiến tranh ngày càng ác liệt và lan rộng là việc làm bất hợp pháp, là tội ác đối với dân tộc nhân loại. Ngoài ra chính quyền Thiệu còn ban hành sắc luật số 002/72 ngày 12/3/1975 tổng động viên tu sĩ từ 17 - 20 tuổi đi lính đánh thuê chết thay cho Mỹ. Đây là hành động tội ác nhằm tiêu diệt tôn giáo. Vì vậy, Ban lãnh đạo trung ương Giáo Hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam thay mặt chư Tăng, Ni và toàn thể Phật tử đồng thanh kiến nghị yêu cầu chính quyền hủy bỏ sắc luật nói trên và trả tự do tức khắc cho trên 1.000 tu sĩ trẻ bị bắt lính trong mấy tháng qua”.

Để thực hiện tinh thần cuộc họp và tập trung vào việc hiện thực hóa chủ trương trên, vào ngày 24/3/1975, Thành hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam thành phố Sài Gòn - Gia Định lại mở tiếp Hội nghị tại chùa Bình Hòa, ở bến Bình Đông (quận 8), dưới sự chủ tọa của Hòa thượng Thiện Nghị, Phó Tăng trưởng, cùng đông đảo Ban chức sự Thành hội, gồm có quý Hòa thượng Hồng Năng, Tăng trưởng Thành hội; Thượng tọa Giác An, Tổng Thư ký; Hòa thượng Thiện Phú, thủ quỹ; Tăng giám các Quận nội ngoại thành và một số tỉnh về dự; đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng tham dự gồm có quý vị Thượng tọa Tắc Thành, Thượng tọa Định Quang, Đại đức Thích Quảng Hạnh… Hội nghị nghe báo cáo tình hình đất nước từ ngày ký kết Hiệp định Paris, lẽ ra đã có hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, nhưng vì hành động phá hoại Hiệp định Paris của Nguyễn Văn Thiệu làm cho chiến tranh ngày càng ác liệt và lan rộng, mục đích cuộc họp còn bàn kế hoạch chống lại các sắc luật 002/72 của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, vào lúc đó quý Thượng tọa Tắc Thành, Định Quang và Quảng Hạnh xác định sẽ sẵn sàng hy sinh nhục thể để bảo vệ đạo pháp và quê hương dân tộc. Phát động thanh niên Tăng Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và thanh niên Tăng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất quyết tâm đoàn kết đấu tranh chống lại lệnh tổng động viên của chính quyền Sài Gòn thời bấy giờ.

Qua đó, Hội nghị biểu quyết chương trình hành động bốn điểm, cụ thể như sau:

1) Hội nghị ra nghị quyết gởi cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi hủy bỏ sắc luật 002/72

2) Để biểu thị sự chống lại lệnh tổng động viên, toàn thể chư Tăng Ni sẽ tập hợp về chùa Sùng Đức để làm lễ cầu nguyện hòa bình cho đất nước và thực hiện tuyệt thực 24 giờ kể từ 14 giờ ngày 26/3/1975 cho đến khi nào chính quyền Sài Gòn tuyên bố bãi bỏ lệnh tổng động viên.

3) Tổ chức biểu tình tại Phủ Thủ tướng và Tòa đô chánh Sài Gòn trao kiến nghị và tuyên bố của Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam chống lệnh tổng động viên.

4) Giao nhiệm vụ cho Tổng đoàn Thanh niên Tăng Ni và bầu ra Ủy ban chống lệnh tổng động viên gồm Đại đức Thích Hồng Khoa làm Chủ tịch; Đại đức Thích Bửu Minh làm Phó Chủ tịch; Đại đức Thích Định Huệ làm Tổng Thư ký; Đại đức Thích Phước Viên làm thủ quỹ; Đại đức Thích Huệ Xướng làm Ủy viên kế hoạch; Đại đức Thích Huệ Liên làm Ủy viên điều động; hai vị Đại đức Phước Dũng và Giác Hạnh làm Ủy viên thông tin báo chí; Đại đức Giác Nhơn, Đại đức Huệ Chí làm Ủy viên y tế, tiếp tế; và Đại đức Trí Thiền làm Ủy viên liên lạc.

Đến ngày 26/3/1975, tại chùa Sùng Đức toàn thể Ban lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và các đơn vị bạn cùng Tăng Ni Phật tử trong các tổ chức đấu tranh cử hành đại lễ cầu nguyện hòa bình Việt Nam. Về tham dự mitting có quý Hòa thượng trong Hội đồng lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, như Hòa thượng Huệ Thành (Tăng thống); Hòa thượng Bửu Ý (Viện trưởng Viện Hoằng đạo); Hòa thượng Hồng Năng (Tăng trưởng Thành hội); Hòa thượng Thiện Nghị (Phó Tăng trưởng). Bên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có quý Thượng tọa Tổng vụ Tăng sự và quý vị trong Ban Giám đốc Phật Học Viện Huệ Quang, Phật học viện Minh Đức, chùa Thiên Tôn, chùa Hải Tràng, chùa Huệ Quang và chùa Giác Sanh. Bên Ủy ban Thanh niên Tăng chống lệnh tổng động viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có Đại đức Thích Nhựt Thường (Chủ tịch), Đại đức Như Tín (Thư ký), Đại đức Quảng Hạnh (thủ quỹ) cùng hơn một ngàn chư tôn Hòa thượng, Tăng, Ni, nam nữ Phật tử đồng tham dự. Thượng tọa Thích Trí Huệ thay mặt ban tổ chức thông qua chương trình 4 điểm của Thành Hội đề ra, gồm đại lễ cầu nguyện hòa bình cho đất nước Việt Nam và việc sẽ có 150 vị Hòa thượng, Thượng tọa và Đại đức của 18 chùa tuyên bố tuyệt thực 24 giờ. Đúng như kế hoạch, lúc 15 giờ ngày 27/3/1975, một đoàn xe lam nhiều chiếc đến chùa Sùng Đức chở chư Tăng đến Phủ Thủ tướng và Tòa Đô chánh Sài Gòn thực hiện việc trương băng, biểu ngữ, trao kiến nghị kết thúc thắng lợi và giải tán an toàn.

Ngày 25/4/1975, Hội đồng lãnh đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam tiếp nhận lệnh chuẩn bị khởi nghĩa do ông Lê Quốc Sử phổ biến, tức thì Giáo hội mở ngay hội nghị phân công huy động toàn thể chư Tăng Ni và tín đồ Phật tử hình thành đội ngũ, chuẩn bị sẵn sàng khi thời cơ đến, ai ở địa phương nào thì đứng lên huy động quần chúng cùng cơ sở địa phương đó đứng lên cướp chính quyền. Riêng đối với Tổng đoàn thanh niên Tăng tại thành phố phải nắm chắc lực lượng của mình chờ thời cơ đến phải đưa lực lượng chiếm các yếu điểm quan trọng như Nha Tuyên uý Phật giáo, Việt Nam Quốc tự, trụ sở Phật giáo phụng sự xã hội… Đồng thời bí mật bố trí Thượng tọa Trí Huệ rước Hòa thượng Thích Minh Nguyệt từ Tây Ninh về chùa Thiên Quang (Hóc Môn) để chuẩn bị khởi nghĩa.

Vào đêm ngày 29/4/1975, nhận lệnh tổng khởi nghĩa, sáng ngày 30/4/1975, toàn thể Ban lãnh đạo và Tăng Ni Phật tử trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam nhất tề đứng dậy cùng đồng bào các địa phương giành lấy chính quyền một cách trọn vẹn. Như vậy, qua một chặng đường đấu tranh kiên cường, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam cùng Tăng, Ni và tín đồ Phật tử đã cùng với nhân dân Thành phố Sài Gòn – Gia Định hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang, làm nên đại thắng mùa xuân lịch sử năm 1975. Ngay sau thắng lợi, các vị Hòa thượng giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam đã huy động chư Tăng, Ni và tín đồ Phật tử tại thành phố đến chùa Trường Thạnh để dự hội nghị, nghe đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và chính quyền cách mạng lâm thời Thành phố phổ biến những chính sách lớn của Mặt trận, như tuyên bố của Chính phủ cách mạng lâm thời ký ngày 25/3/1975, tuyên bố chính sách 10 điểm đối với vùng mới giải phóng ký ngày 1/4/1975 và 10 điều kỷ luật đối với cán bộ, nhân viên vùng mới giải phóng ký ngày 1/4/1975…

4. Kết luận

Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam đương thời đã đáp ứng được kỳ vọng tâm tư của đa số quần chúng nhân dân là hòa bình, độc lập, thống nhất tổ quốc. Cho nên, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam trở thành trung tâm tập hợp các cánh tiến bộ trong tông phái, giáo phái tham gia mặt trận đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Nhiệm vụ hàng đầu của tổ nòng cốt là tập trung tăng cường phục vụ quần chúng, từ đó mạnh dạn phát động quần chúng tập hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh, nhất là xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ngày càng mạnh mẽ đều khắp. Củng cố lập trường giai cấp công nhân, nắm vững đường lối quần chúng của Đảng, giải thích chính sách tôn giáo của Đảng chống mê tín, tôn trọng chánh tín, thực hiện tự do tín ngưỡng, vạch rõ âm mưu Mỹ ngụy lợi dụng tôn giáo, tiêu diệt tôn giáo, sử dụng hai khả năng chính sách thực hiện kiểu mới xâm lược Việt Nam, quán triệt chủ trương đường lối và các yêu cầu trên, tiến hành thực hiện mục đích xây dựng phát triển cơ sở thực lực mạnh mẽ, làm thay đổi lực lượng trong các đô thị và thành phố, thực hiện mục tiêu phương hướng cách mạng, đánh đổ đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Như vậy, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ được đề ra một cách vẻ vang, góp phần làm nên đại thắng lịch sử mùa xuân năm 1975. Những cống hiến thầm lặng nhưng vô cùng ý nghĩa của chư Tăng, Ni và Phật tử nói lên vai trò đồng hành sắt son cùng dân tộc, cùng trách nhiệm trước vận mệnh đất nước.

Có phải chăng tư tưởng nhập thế của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã hun đúc tinh thần nhiệt huyết, hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi của chư tôn đức Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam. Các ngài như vị bồ tát lướt thuyền từ vào trong biển khổ giúp chúng sanh chằng từ gian khó. Khi đất nước lâm nguy, dân tộc rơi vào cảnh nguy biến các nhà sư sẵn sàng “cởi áo cà sa mặc chiến bào, quên mình vì nước sá chi bao”. Hoặc như Hòa thượng Thích Thế Long (Thành viên lãnh đạo Hội thống nhất Phật giáo Việt Nam) hỏi Hòa thượng Thích Bửu Ý (Trưởng đoàn Phật giáo miền Nam ra thăm miền Bắc): “Hòa thượng nghĩ gì về chư Tăng miền Bắc?”, Hòa thượng Thích Bửu Ý trả lời: “Phật giáo từ thời Lý-Trần đã có lòng yêu nước, nay vì đất nước thuận theo lòng dân mà cầm quân đánh giặc, trong khế kinh cũng có nói: Hộ quốc tùy dân, hưng binh đấu giả, đắc phước vô tội”... Khi đất nước hoàn toàn độc lập, các nhà sư tiếp tục vận hành chuyển bánh xe pháp, đem lời hay ý đẹp của Phật vào trong cuộc đời, nâng cao giá trị đạo đức cá nhân cho cuộc sống càng thêm tốt đẹp.

Điều này có thể khẳng định, vai trò và vị trí của Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam trong quá trình cống hiến cho đạo pháp và dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử là không thể phủ định. Đó là mắt xích không thể thiếu được trong tiến trình của duyên khởi, đưa đến thành tựu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hôm nay.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. HT. Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo, Davibooks, 1970.

2. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn Học, 2019.

3. Thích Huệ Thông, Lược sử Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn Hóa Văn Nghệ, 2019

4. Thích Đồng Bổn, Tiểu sử Danh Tăng Phật giáo VN tập 1&2, Thành hội Phật giáo TP.HCM ấn hành, 1995.

5. Các ấn phẩm nội bộ của GHPG Cổ truyền Việt Nam đương thời.

 


* Nguyên Phó Tổng Thư ký kiêm CVP TW GHPGCTVN; nguyên Hiệu trưởng Trường Tư thục Lục Hòa; nguyên Phó Thư ký kiêm Chánh Văn phòng BTS GHPGVN TPHCM; nguyên Đại biểu HĐND TPHCM khóa III; Ủy viên BTS GHPGVN TP.HCM; Trưởng BTS GHPGVN Quận Tân Phú, TP.HCM; Trưởng Ban thừa kế Thiên Thai Thiền Giáo Tông kiêm Trưởng Ban Quản trị Tổ đình Thiên Thai.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 28
    • Số lượt truy cập : 6795837