VAI TRÒ CỦA LÊ DƯ VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
TRONG VIỆC NHẬN CHÙA QUÁN SỨ
(Phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ, giai đoạn 1934-1955)
THÍCH BỔN ĐỨC
Cao học khóa III,
Học viện Phật giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chùa Quán Sứ , Hà Nội
Dẫn nhập
Từ những ngày đầu của phong trào chấn hưng Phật giáo, Lê Dư đã là một trong thành viên quan trọng, người đồng sáng lập Hội Phật giáo Bắc kỳ (1934). Vai trò của Lê Dư đối với phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ đến nay vẫn còn được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến. Trong số những đóng góp của Lê Dư, dấu ấn đậm nét nhất chính là việc ông đứng ra tiếp quản chùa Quán Sứ. Trong bối cảnh Phật giáo Bắc kỳ những năm 30 thế kỷ XX, sự có mặt của Lê Dư chẳng những kịp thời cứu vãn tình trạng ngôi chùa sắp bị chính quyền thực dân xóa bỏ, hơn thế nữa dưới sự tác động của Lê Dư và giới trí thức Phật giáo vị thế ngôi chùa cũng bước sang trang mới, Quán Sứ trở thành trung tâm cho các hoạt động chấn hưng Phật giáo tại Bắc kỳ diễn ra trong những năm 1934-1945.
Nội dung
1. Tiểu sử Lê Dư
Lê Dư, hiệu là Sở cuồng (1885-1967), ông là nhà văn, nhà nghiên cứu Hán - Nôm. Nguyên quán tại làng Nông Sơn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trước khi tham gia vào phong trào Phật giáo, Lê Dư từng cộng tác và có nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Nam Phong, báo Đông Thanh và báo Tri tân1.
Giai đoạn những những 1904-1905, nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đề xướng phong trào Đông du, kêu gọi thanh niên Việt Nam xuất dương sang Nhật, Lê Dư là một trong số những học sinh đầu tiên đã gắn bó với phong trào này. Tuy nhiên, quá trình học tập tại Nhật Bản chưa bao lâu thì số học sinh và nhà lãnh đạo lão thành Phan Bội Châu đều bị chính phủ Nhật, lúc này đang bắt tay với thực dân Pháp, trục xuất về nước.
Về sau, chứng kiến công cuộc đấu tranh chống Pháp của Phan Bội Châu liên tục thất bại, Lê Dư quyết định tách khỏi Phan Bội Châu rồi tham gia viết báo và làm việc cho chính quyền thuộc địa.
Năm 1917, Tạp chí Nam Phong ra đời, Lê Dư góp phần tích cực xây dựng tạp chí. Theo Phạm Hoàng Quân, tác giả cuốn Mục lụcđề yếu phần Hán văn Tạp chí Nam phong (1917-1934) nhận định: “Hai tác giả Nguyễn Bá Trác và Lê Dư có số bài viết chiếm gần1/3 dung lượng toàn phần Hán văn”2.
Năm 1925, Lê Dư được mời làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ, ông “phụ trách phông chữ Nhật Bản cho thư viện trường”3. Năm 1945, trong hai tháng từ tháng 9 đến tháng 10, ông được bổ nhiệm quyền Giám đốc Viện Viễn Đông bác cổ4.
Năm 1945, khi phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp được đẩy mạnh, Lê Dư tản cư đến vùng Thanh Hóa, tiếp tục các hoạt động liên quan đến văn hóa. Đến năm 1954, ông trở về Hà Nội sinh sống và mất tại đây vào tháng 8 năm 1967, thọ 82 tuổi.
Về sự nghiệp văn học, Lê Dư được giới trí thức cùng thời đánh giá là một nhà văn có chuyên môn trong lĩnh vực biên tập và khảo cứu. Những công trình khảo cứu và biên tập của Lê Dư rất đa dạng, phong phú, nội dung bao quát với nhiều thể tài như bút ký, biên khảo, triết học, tôn giáo, lịch sử, văn học sử, sưu tập tài liệu cổ trong và ngoài nước.
Điểm mạnh của Lê Dư là trình độ Hán văn, do đó các bài viết bằng Hán văn chiếm lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nếu chỉ tính riêng các bài đăng trên Tạp chí Nam Phong phần Hán văn thì số bài viết này đã vượt hơn con số 125 bài5.
Bên cạnh việc viết cho Tạp chí Nam Phong, Lê Dư còn là chủ biên cho bộ Quốc học tùng san. Tập hợp những sách do chính ông sưu tập và biên soạn được ông gọi tên là Sở Cuồng văn khố Quốchọc tùng san.
Giai đoạn những năm 30 của thế kỷ XX, Lê Dư thường xuyên sử dụng hai từ “quốc học” trên các diễn đàn văn học, báo chí trong nước. Với vấn đề này, có thể nhận định Lê Dư đã dành hết tâm huyết để cổ suy cho nền “quốc học” Việt Nam. Ông cho rằng phát huy được sức mạnh của “quốc học” chính là phát huy được sức mạnh “quốc túy”, “quốc hồn” của dân tộc.
Vậy “quốc học” là gì? Tìm hiểu trong những tài liệu của Lê Dư, cho thấy Lê Dư là người không đặt nặng vấn đề khi định nghĩa về hai từ “quốc học”. Theo ông, tất cả những tác phẩm thuộc văn học cổ, trung, cận đại do người Việt sáng tác bằng chữ Hán hay chữ Nôm được sưu tập, biên soạn đều thuộc về “quốc học”. Do đó, hai từ “quốc học” được định nghĩa: “Toàn bộ di sản văn hóa tinh thầncủa cha ông đều được coi là quốc học” 6.
Tóm lại, việc sưu tầm, đề cao nền văn học nước nhà, bao gồm văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ, tính đến thời điểm nửa đầu thế kỷ XX, thì Lê Dư được xem là một trong những nhà hoạt động sôi nổi, nhiệt huyết nhất. Ông có nhiều ý tưởng mới lạ, độc đáo khi cố gắng cổ súy nền “quốc học” Việt Nam. Chính sự tâm huyết này đã phản ánh được tình cảm yêu quý và vô cùng trân trọng của Lê Dư đối với cho các di sản do tiền nhân để lại.
2. Ý nghĩa thực tiễn từ việc Lê Dư nhận chùa Quán Sứ
Lê Dư tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ từ những năm 1933, thông qua việc ông được Lê Toại mời cộng tác trong nhóm Phật học tùng thư7. Phật học tùng thư được sáng lập bởi Thái Hòa, Vũ Đình Ứng (sư Hải Châu), Trí Hải, Lê Toại, Trần Văn Giác và Nguyễn Hữu Kha. Thời điểm những năm 30, tùng thư sớm trở nơi hội tụ của nhiều nhà trí thức, nhà văn, nhà báo hữu danh như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Lê Toại.
Tham gia vào Hội Phật giáo Bắc kỳ, công việc chủ yếu của Lê Dư là quản lý và cố vấn các hoạt động cho hội. Ông thường thay mặt hội tiếp đón khách trong và ngoài nước. Vì phần lớn thời gian Lê Dư phụ trách công việc hành chính, nên ông có rất ít bài viết trên báo Đuốc Tuệ, duy nhất Đuốc Tuệ số 53, ra ngày 15/01/1937 có bài đăng với tiêu đề “Bịnh tình cụ Thiền gia Pháp chủ” là ghi tên Sở cuồng Lê Dư mà thôi.
Tuy nhiên, một trong những đóng góp quan trọng của Lê Dư đối với phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ, chính là việc ông đứng ra tiếp nhận chùa Quán Sứ từ tay hai nhà sư Nguyễn Thị Đoan và Nguyễn Thị Tần để làm cơ sở hoạt động.
Về chùa Quán Sứ, cuốn Phong trào chấn hưng Phật giáo ởBắc kỳ của tác giả Ninh Thị Sinh xuất bản năm 2020, đã cung cấp đủ lượng thông tin cần thiết. Ngoài ra, tài liệu xưa hơn liên quan đến ngôi chùa này, có thể tìm thấy trong 城南舘使寺與李國師攷 (Thành nam Quán Sứ tự dữ Lý Quốc sư khảo) của tác giả Lê Dư đăng trên Nam Phong phần Hán văn số 206, 10/1934 và bài “Dấu xưa vết cũ” đăng trên Ngọ báo Hà Thành, số ra ngày 21/01/1932.
Theo cuốn Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc kỳ, tác giả Ninh Thị Sinh đề cập, trước khi chùa Quán Sứ được chọn làm hội quán của Hội Phật giáo Bắc kỳ, chùa này do hai sư ni là cô Nguyễn Thị Đoan và Nguyễn Thị Tần quản lý. Khi đó, chùa nằm tại góc phố Teinturiers (phố Thợ Nhuộm) và phố Richaud (phố Quán Sứ). Tình trạng của chùa đã xuống cấp khá nghiêm trọng, nhưng bù lại trong khuôn viên có rất nhiều cây xanh, là khu đất rất mát mẻ.
Năm 1933, sở Đốc lý Hà Nội có kế hoạch chọn khu đất này, bao gồm chùa Quán Sứ, để xây dựng vườn hoa thành phố. Trước đó, sở Đốc lý đã cho đổ đất lấp hết các ao rạch và xây dựng tường rào bao quanh. Vì tiếc một di tích tồn tại từ lâu đời, nên sư Đoan tìm cách thương thảo cùng hai thầy Thái Hòa và Trí Hải, nếu như có thể giữ được chùa tránh bị phá bỏ thì sư Đoan xin nhượng chùa và quyền quản lý cho các thầy để làm Phật sự.
Sau, sư Trí Hải đem việc trên bàn bạc với các vị cư sĩ trí thức trong đó có Lê Dư, cuối cùng Lê Dư chấp nhận đứng ra nhận lãnh chùa Quán Sư. Lê Dư từng phát biểu: “Chùa Quán Sứ chính là nơicổ tích lịch sử của nước nhà, chúng ta có bổn phận phải duy trì không thể để mất chốn di tích ấy được”8.
Đúng theo lời thương thảo, sư Đoan và tập thể làng Yên Tập đã viết giấy cam kết xin bàn giao chùa Quán Sứ trong thời hạn 6 năm lại cho hai vị là thầy Trí Hải và Lê Dư quản lý. Ngoài ra, giao kết cũng đề cập nếu quá thời hạn 6 năm, các vị không giúp chùa phát triển tốt thì phải giao trả lại cho sư Đoan.
Việc Lê Dư nhận chùa Quán Sứ mang nhiều ý nghĩa tích cực. Trong tập Hồi ký Thành lập Hội Phật giáo Việt Nam của Hòa thượng Thích Trí Hải (1906-1907) viết, lúc đầu khi thành lập Phật học tùng thư, do vì tại Hà Nội không tìm được địa điểm thích hợp để làm cơ sở hoạt động, nên các nhà sáng lập buộc phải di chuyển về chùa Mai Xá, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Tại Mai Xá, thực tế tùng thư chỉ là một căn phòng nhỏ với một vài trang thiết bị như tủ, bàn, ghế rất đơn sơ. Dù có quy mô khiêm tốn, nhưng thời điểm đó, tùng thư đã thu hút không ít trí thức lớn tham gia sinh hoạt, tiêu biểu như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Vĩnh. Một trong những khó khăn cho các hoạt động của tùng thư chính là việc di chuyển, trao đổi tin tức giữa các trí thức luôn gặp trở ngại vì đường sá xa xôi, thiếu phương tiện di chuyển.
Nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra là tìm cho được một nơi phù hợp vừa gần thành thị, vừa có đường giao thông thuận lợi để tiện bề thúc đẩy quá trình chấn hưng Phật giáo. Đến năm 1934, đáp lại sự cấp thiết của phong trào chấn hưng Phật giáo, Lê Dư đã đứng ra nhận và quản lý chùa Quán Sứ, sau đó bàn giao lại cho hội Phật giáo chọn làm cơ sở hoạt động. Về vị trí địa lý, chùa Quán Sứ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí do nhóm trí thức đặt ra, chùa tọa lạc tại góc phố Teinturiers (nay là phố Thợ Nhuộm) và phố Richaud (nay là phố Quán Sứ).
Việc Lê Dư nhận chùa Quán Sứ, tác giả Ninh Thị Sinh có những nhận định: “Lê Dư là người giữ vai trò chủ chốt trongviệc nhận chùa Quán Sứ và chính ông đã mời sư Trí Hải chùa Mai Xá, Hà Nam lên trông nom chùa Quán Sứ”9. Như vậy, Lê Dư không chỉ kịp thời bảo vệ chùa Quán Sứ trước tình trạng sắp bị quy hoạch, ông còn góp phần phát huy giá trị ngôi chùa trong vai trò, nhiệm vụ mới là thúc đẩy quá trình chấn hưng Phật giáo được phát triển.
Năm 1934, chùa Quán Sứ được chọn làm hội quán trung ương, nơi đây Hội Phật giáo Bắc kỳ chính thức được thành lập, trở thành sự kiện quan trọng nhất của Phật giáo Bắc kỳ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Kết luận
Quá trình thành lập Hội Phật giáo Bắc kỳ và sự thành công trong các hoạt động chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, trong đó trí thức nói chung có vai trò hết sức quan trọng, nhờ vào công sức của Lê Dư đứng ra nhận lãnh chùa Quán Sứ, nên việc chấn hưng Phật giáo được diễn tiến thuận lợi. Lê Dư và giới trí thức đưa phong trào chấn hưng Phật giáo đi đúng theo kế hoạch đã định. Với sự ra đời của Hội Phật giáo Bắc kỳ, đã kiện toàn được cuộc tổng vận động chấn hưng Phật giáo diễn ra khắp ba miền của Việt Nam.
Hiện nay, chùa Quán Sứ đã là một biểu tượng tôn giáo, điểm sinh hoạt văn hóa, tâm linh cho người dân thủ đô. Những gì Lê Dư đóng góp trong quá khứ vẫn còn nguyên giá trị và luôn được các thế hệ sau nhắc đến trong tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Thế Long, Trần Thái Bình (2021), Học viện Viễn Đông bác cổ (Giaiđoạn 1898-1957), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. Phạm Hoàng Quân (2019), Mục lục đề yếu phần Hán văn Tạp chí Namphong (1917-1934), Nxb. Đà Nẵng.
3. Ninh Thị Sinh (2020), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc kỳ. Trườnghợp Phật giáo (1934-1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Thích Trí Hải, Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2004.
5. Sơn môn Tổ đình Tế Xuyên, Kỷ yếu Các hội thảo tọa đàm khoa học về Sa môn Thích Trí Hải, Quyển 1, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2021.
6. Ngọ báo Hà Thành, ngày 21 tháng 1 năm 1932.
7. Tạp chí Nam Phong (phần Hán văn) số 206, tháng 10 năm 1934.
8. Đuốc Tuệ số 53, ra ngày 15/01/1937.
1. Ngô Thế Long, Trần Thái Bình (2021), Học viện Viễn Đông bác cổ(Giai đoạn 1898-1957), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 70, 71.
2. Phạm Hoàng Quân (2019), Mục lục đề yếu phần Hán văn tạp chí Namphong (1917-1934), Nxb. Đà Nẵng, tr. 19.
3. Ninh Thị Sinh (2020), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc kỳ.Trường hợp Phật giáo (1934-1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 102.
4. Ngô Thế Long, Trần Thái Bình (2021), Học viện Viễn Đông bác cổ(Giai đoạn 1898-1957), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 71.
5. Mục lục đề yếu phần Hán văn tạp chí Nam phong (1917-1934), sđd, tr. 65-89.
6. Lê Thị Huyền Trang, Luận văn Thạc sĩ: Tiếp xúc văn hóa Đông – Tâytrên lĩnh vực giáo dục qua Nam Phong tạp chí (1917-1934), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2013.
7. Phật học tùng thư có trụ sở đặt tại chùa Mai Xá, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nơi của Hòa thượng Thích Trí Hải). Công việc chủ yếu của Phật học tùng thư là phiên dịch kinh điển đạo Phật sang chữ Quốc ngữ, xuất bản để phổ biến sâu rộng giáo lý đạo Phật, Phong trào chấn hưngPhật giáo ở Bắc kỳ. Trường hợp Phật giáo (1934-1945), sđd, tr. 90).
8. Nguyễn Đại Đồng, “Các cư sĩ Bắc kỳ với phong trào chấn hưng Phậtgiáo”. Sơn môn Tổ đình Tế Xuyên, Kỷ yếu Các hội thảo tọa đàm khoa học về Sa môn Thích Trí Hải, Quyển 1, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2021, tr. 77.
9. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc kỳ. Trường hợp Phật giáo (1934-1945), sđd, tr. 95, 96.
Bình luận bài viết