VĂN CHƯƠNG LIỄN ĐỐI
TẠI CHÙA BÍCH LIÊN LAN NHÃ
THÍCH HỮU NHẬT
Cặp đối của hòa thượng Bích Liên treo tại chùa Bích Liên - Bình Định
Hòa thượng Bích Liên, tục tánh là Nguyễn, tự là Trọng Khải, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1876 (nhằm ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý), tại làng Háo Đức, tổng Háo Đức, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, nay thuộc ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định1. Hòa thượng Bích Liên được sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, thuộc gia đình trung lưu nên Ngài được tạo điều kiện theo học các trường. Đây là những điều kiện giúp Ngài sớm trở thành một bậc Nho sinh ưu tú, nhưng Ngài không có niềm tin đối với Phật pháp. Sau khi được tiếp kiến Quốc sư Phước Huệ, biết rõ tài năng của Quốc sư nên Ngài sinh lòng cảm phục, từ đó Ngài đem một lòng học Phật2. Ngôi nhà đã trở thành nơi Ngài tầm kinh học đạo, nghiên cứu kinh điển, có lẽ vì thế nơi đây dần được chuyển thành thất riêng của Ngài. Khi nhân duyên đã hội tụ, Ngài được Hòa thượng Hoằng Đàm3 giới thiệu ra chùa Thạch Sơn để xuất gia với Hòa thượng Hoằng Thạc. Sau hai năm, Ngài đắc pháp với Hòa thượng trở về lại Bình Định, Ngài liền “cải gia vi tự” với tên gọi là Bích Liên Lan Nhã. Dựa vào bức hoành phi còn để lại ở chánh điện chùa Bích Liên, có ghi:
碧蓮蘭若
啟定七年壬戊夏
智海道人演造
Phiên âm:
Bích Liên Lan Nhã
Khải Định thất niên Nhâm Tuất hạ
Trí Hải đạo nhân diễn tạo
Bích Liên Lan Nhã được Hòa thượng Bích Liên thành lập vào mùa hạ năm Nhâm Tuất (1922) dưới triều vua Khải Định năm thứ bảy. Năm Giáp Tuất (1934) Ngài quyết định khai sơn chùa Bích Liên, kể từ đó các học Tăng ở khắp mọi nơi trở về đây quy y và học đạo với Ngài, trở thành những danh tăng trong Phật giáo.
Hiện nay, chùa Bích Liên vẫn còn lưu giữ những câu liễn đối của Hòa thượng. Ngay tại cổng cũ của chùa Bích Liên có đề hai câu:
夜敲嚮度前溪月
晝裺芗藏曲徑花
Phiên âm:
Dạ xao hướng độ tiền khê nguyệt
Trú yểm hương tàng khúc cảnh hoa
Dịch nghĩa:
Đêm trăng chảy xuống trước dòng sông
Ngày che hương ẩn một trời hoa.
(TT. Hồng Thanh dịch)
Ý nghĩa bên trong câu liễn đối, đằng sau những hình ảnh bình thường, một ngôi chùa không nổi bật nhưng lại trưởng dưỡng nhiều bậc danh Tăng. Các vị đã đóng góp trong công cuộc chấn hưng Phật giáo và đào tạo Tăng tài nhằm củng cố mạng mạch Phật pháp.
Câu đối được treo ở bên cánh cửa chánh điện, được viết bằng chữ thảo với đường nét uốn lượn sắc sảo, bao quanh là những hoa văn được chạm khắc khá đẹp. Tất cả các chữ được tô điểm màu vàng không chỉ chứa đựng nội dung sâu sắc mà còn mang tính thẩm mỹ.
其 間 水 鳥 樹 林 咸 宣 妙 偈
之 外 山 河 大 地 全 露 法 身
保大元年丙寅中和節
觀音聖誕佳晨
碧蓮常信文寶
真鉴和南拜題
Phiên âm:
Kỳ gian thủy điểu thọ lâm hàm tuyên diệu kệ,
Chi ngoại sơn hà đại địa toàn lộ pháp thân.
Bảo Đại nguyên niên Bính Dần trung hòa tiết
Quan Âm thánh đản giai thần
Bích Liên đường Tín Văn bảo
Chơn Giám hòa nam bái đề
Dịch nghĩa:
Trong đây chim suối cỏ cây cùng tuyên diệu kệ,
Ngoài đó núi sông đất cát đều lộ pháp thân.
Vào tiết trung hòa, Bảo Đại năm Bính Dần
Chơn Giám kính viết tại Bích Liên đường Tín Văn bảo.
(Thầy Không Hạnh dịch)
Ở phía trung tâm chánh điện, câu liễn đối được viết theo dạng tròn, chữ viết tô điểm màu vàng nổi bật trên nền đỏ, bao quanh là những họa tiết được chạm khắc tinh tế nhô lên so với phần nội dung. Câu liễn đối này được viết vào Bảo Đại mùa xuân năm Nhâm Ngọ, Hòa thượng cùng Bổn đạo bổn tự vui vì được Vua ban sắc tứ.
勅賜奉金題點點恩波龍筆荷
碧蓮开寶藏法聲聲鶴牀邊
Phiên âm:
Sắc tứ phụng kim đề điểm điểm ân ba long bút hạ
Bích Liên khai bảo tạng pháp thanh thanh kê hạt sàng biên
Dịch nghĩa:
Lệnh ban nâng bảng vàng nét bút Vua phê chuẩn
Bích Liên mở pháp tạng âm thanh tiếp nối đến quan quân
(TT. Hồng Thanh dịch)
Ở hai bên của bàn tổ có treo cặp liễn đối với hình dạng uốn tròn theo hình cột, lối viết chữ thảo mang tính thẩm mỹ cao kết hợp với những hoa văn họa tiết bên ngoài làm nổi bật hình ảnh liễn đối:
老和尚面目難噚無我無因無壽
大 道 場 精 神 易 感有佛有法有僧
保大十四年己卯夏和南紀奉
門下:文如雪陈如海...同拜
Phiên âm:
Lão Hòa thượng diện mục nan tầm vô ngã vô nhơn vô thọ
Đại đạo trường tinh thần dị cảm hữu Phật hữu Pháp hữu Tăng
Bảo Đại thập tứ niên Kỷ Mão hạ hòa nam dĩ phụng
Môn hạ: Văn Như Tuyết, Trần Như Hải… đồng bái
Dịch nghĩa:
Hòa thượng lớn thấu rõ không ngã không nhơn không thọ khó tìm
Đạo tràng lớn với tư tưởng dễ cảm thông có Phật có Pháp có Tăng
Bảo Đại năm thứ mười bốn vào mùa hạ cung kính vâng chép
Môn hạ: Văn Như Tuyết, Trần Như Hải…cùng bái.
Câu đối viết bằng bút sơn màu vàng trên nền đỏ và đặt ngay sân cát
蓮池 一 頸 開先路
籣若 千 秋 奠祖 廷
Phiên âm:
Liên trì nhất cảnh khai tiên lộ
Lan Nhã thiên thu điện tổ đình
Dịch nghĩa:
Ao sen một cọng mở đường mê
Yên tĩnh nghìn năm lập tổ đình
(Hữu Nhật dịch)
1. Từ Bi Âm, số 14, 1932, tr.43.
2. Tham vấn chư tôn Đức thuộc tông môn của Hòa thượng Bích Liên.
3. Đây có lẽ là huynh đệ với Hòa thượng Hoằng Thạc, nhưng chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nói về Ngài.
Bình luận bài viết