Thông tin

VỀ “GIÁC QUAN THỨ SÁU”

VỀ “GIÁC QUAN THỨ SÁU”

TRÍ TÂM

Xin được nói ngay, đây không phải là một thứ linh tính, kiểu như lòng bồn chồn, nóng ruột, mắt luôn co giựt… những dấu hiệu báo trước một điều gì hệ trọng có tính chất tâm linh sắp xảy ra như cách hình dung của dân gian. Đây cũng không phải là một thứ trực giác hay sự mẫn cảm thường có ở con người.

Thực chất, đó là một loại tâm giác, chi phối mọi giác quan khác.

 

Trong Khảo cứu về Tịnh độ tông, học giả Chánh Trí Mai Thọ Truyền - một người có biệt tài trình bày những vấn đề phức tạp, trừu tượng bằng những minh họa rất đơn giản - có dẫn giải, con người tiếp xúc với ngoại cảnh không chỉ bằng mắt và tai, mà còn bằng bốn căn hay giác quan khác là mũi, lưỡi, thân và ý.

 Một nhận xét thoạt có vẻ bình thường, nhưng kỳ thực biện giải cho có ngọn nguồn, có sức thuyết phục cũng không hề đơn giản. Năm giác quan là thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác thì quá rõ ràng, còn ý giác hay tâm giác là gì? Vai trò và chức năng của nó như thế nào trong hệ giác, đặc biệt trong quá trình từ vô minh đến giác ngộ, hiểu là một quá trình nhận thức thông qua những trải nghiệm có tính hướng nội? Tại đây, với tư cách là một ngành nghiên cứu khoa học xã hội, quan điểm của ngôn ngữ học hiện đại, cụ thể là ngôn ngữ học tri nhận lại có những điểm rất gần gũi với cách hình dung của nhà Phật.

Trước hết với lý thuyết nghiệm thân, các nhà ngôn ngữ học hình dung con người dùng những trải nghiệm ngay với chính bản thân mình để tương tác với thế giới. Từ việc phân lập một không gian vốn liên tục thành những thực thể rời rạc với những ranh giới nhân tạo như chính con người cá thể tồn tại trên mặt đất, từ việc tư thế thẳng đứng của con người trong việc định vị không gian và thời gian, đến cả những cảm nhận đơn giản từ giác quan, dùng nó như một cơ sở để phóng chiếu lên những thực thể trừu tượng… đều có ý nghĩa nghiệm thân. Và chính những điều ấy chi phối cách nghĩ, cách cảm mà nhiều khi chính con người cũng không nhận ra. Không phải ngẫu nhiên mà trong rất nhiều ngôn ngữ đều tồn tại ý niệm tốt là bên phải, xấu là bên trái. Bởi như chúng ta đều biết, phần lớn con người đều thuận tay phải, làm việc với tay phải thì dễ dàng hơn rất nhiều so với tay trái, đó là chưa kể sự phiền toái trong hoạt động của người thuận tay trái. Hay hãy quan sát khuôn mặt, dáng đi, trạng thái tâm lý của một người hạnh phúc vui vẻ và các biểu hiện của một người buồn rầu, thất bại, chán nản, chúng ta mới thấy hết được ý nghĩa của nguyên lý vui vẻ thì hướng lên, buồn phiền thì hướng xuống và hàng loạt cách biểu thị cho các ý niệm vừa nêu như: bay trên chín tầng mây, phấn chấn tinh thần, lên tinh thần, lòng lâng lâng, nâng tinh thần lên, ngẩng cao đầu, vênh mặt, hất mặt lên trời… và xuống tinh thần, suy sụp tinh thần, tinh thần đi xuống, rơi vào tuyệt vọng, ngã lòng, ủ rũ, cúi gầm mặt, đôi mắt cụp xuống…

Trong năm giác quan như những thông tin đầu vào của một modul, nếu chịu khó quan sát chúng ta sẽ thấy sự cảm nhận trực tiếp và cả sự xử lý thông tin một cách trực tiếp của con người không nhiều mà thường thông qua một sự chuyển đổi  được gọi là sự chuyển đổi cảm giác. Trong đó, thông qua cái cụ thể, vật chất, hữu hình để nói đến cái trừu tượng, cái phi vật chất vô hình. Chẳng hạn, vị giác: Bài thơ nhạt thếch, nó đùa nhạt như nước ốc…, xúc giác: Cách định danh tên riêng ở Nam Bộ thô ráp, vấn đề đang hot, khuôn mặt lạnh như tiền…,

Thị giác: Đầu óc nó tối tăm, lập luận sáng trưng…, thính giác: Thời ồn ào của ngựa non háu đá đã qua lâu rồi, câu văn thánh thót…, khứu giác: Để tiếng thơm muôn đời, lập luận thối không chịu được…

Theo nhà Phật, mọi hiện tượng bao gồm vật tượng và tâm tượng đều do nhiều yếu tố tụ thành (uẩn), trong đó năm giác quan được nhìn nhận thuộc phạm trù vật tượng, có hình có sắc tức hữu hình, nằm trong ngũ uẩn, gộp chung vào sắc uẩn. Đó là năm yếu tố căn bản mà cũng là năm căn nguyên, nguồn cội của mọi nhận thức sơ khởi, từ đây sẽ phát sinh nhiều ngọn ngành khác. Trong ngũ căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỵ căn, thiệt căn và thân căn, theo cụ Mai Thọ Truyền, nhĩ căn và nhãn căn là nhạy bén hơn hết, nhất là nhĩ căn, bởi trong khoảng cách, trong giới hạn tầm nhìn, với chướng ngại vật, có thể mắt không thấy nhưng tai có thể nghe được. Ở đây, cần sớm lưu ý, dựa vào tiêu chí vật chất hữu hình, ngũ căn được xem xét như một hệ thống hoàn toàn độc lập, trong đó mỗi một căn (giác quan) là những yếu tố cũng độc lập tương đối và chúng đảm nhiệm những chức năng khác nhau.

Cũng theo nhà Phật, ngũ căn, gắn liền với ngũ trần hay ngũ cảnh. Theo chiết tự, trần là bụi bặm, do áp lực ngữ nghĩa, chúng không trung tính mà là bụi nhơ bẩn. Chúng gồm: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần và xúc trần. Còn cảnh thì khó hình dung hơn, đó là cảnh sắc, là hình dạng, hình tướng, là duyên ngộ lệ thuộc rất nhiều vào tâm, trong ngũ cảnh chỉ có xúc cảnh sắc thái không được biểu lộ và chúng ta không thể nhìn thấy được, tứ căn còn lại đều có biểu hiện cụ thể.

Có thể nói, ngũ căn là những phương tiện hữu hiệu để tri nhận thế giới nhưng đồng thời cũng là những vật cản sinh ra những tạp niệm trong quá trình tiệm cận chân lý.

Như vậy, có thể thấy, Phật giáo luận và tri nhận luận đều coi trọng vai trò của năm giác quan trong nhận thức. Trong ba con đường hình thành nên văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ, không thể không có vài trò của các giác quan. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, mặc dù con người dùng ngũ quan như một bệ phóng, nhất là với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật, đã sử dụng chúng một cách hữu hiệu trong khá nhiều việc, nhưng chúng không phải là nhân tố quyết định.

 

Theo ngôn ngữ học, con người hay khai thác các tương đồng trải nghiệm để lập thức. Nói cụ thể hơn, chúng ta xuất phát từ sự trải nghiệm nhiều hơn, hiểu biết nhiều hơn ở miền nguồn như sự cảm nhận của các giác quan chẳng hạn, để hiểu lĩnh vực trải nghiệm ít hơn, hiểu biết ít hơn ở miền đích như những chủ đề tâm linh chẳng hạn. Ví dụ ẩn dụ: Đời người là cỏ cây, ở đây toàn bộ tri thức về thực vật, từ hạt lúc nẩy mầm đến lúc phát triển, già cỗi… từ gốc cây, thân cây, ngọn cây, hoa lá, quả… đều dùng làm cơ sở để phóng chiếu lên cuộc đời của con người. Điều bao trùm lên tất cả là một sự tương tác. Tương tác giữa vật tượng và tâm tượng, tương tác giữa con người và môi trường, tương tác giữa miền nguồn và miền đích. Ngôn ngữ học tri nhận phê phán quan điểm nhị nguyên của phương Tây cho rằng tâm  hồn tách khỏi thể xác, cũng không thể chia sẻ cái nhìn khách quan chủ nghĩa, tách con người ra khỏi môi trường, với huyền thoại quyền lực có thể chinh phục được thiên nhiên, lại cũng không thể tán đồng quan điểm chủ quan chủ nghĩa với cái nhìn lãng mạn. Ngược lại, họ chủ trương, thân xác có liên quan đến tư duy, con người là một bộ phận của môi trường, vai trò trải nghiệm của chủ thể tri nhận trong một cộng đồng diễn ngôn là hết sức to lớn, thậm chí có ý nghĩa quyết định trong việc ý niệm hóa và phạm trù hóa thế giới.

Theo Phật pháp, ngoài ngũ căn như đã đề cập ở trên, con người còn có một căn nữa, quan trọng hơn rất nhiều, đó là tâm căn hay ý căn, hoàn toàn đồng nghĩa với tâm giác hay ý giác. Nó không được định vị một cách rõ ràng như các giác quan khác, chỉ có thể hiểu là bên trong con người, tùy theo nền văn hóa có thể là ở trong đầu mà cũng có thể trong tim hay trong lòng, trong bụng, trong dạ. Tâm giác vô hình, phi vật chất, nhưng nó lại có ý nghĩa quyết định trong hết thảy mọi việc. Nó là nhân vật chỉ huy, không có nó, mắt sáng cũng như mù, tai nghe cũng như điếc và khi tu luyện đến một trình độ nào đó, tâm giác sẽ giúp con người nhìn thấu về quá khứ, thấy được sự vận động của tương lai, cũng như cảm được cái lẽ huyền diệu của đất trời, nói như cụ Mai Thọ Truyền: “Mắt có thể không thấy, tai có thể không nghe, mũi có thể không ngửi, lưỡi có thể không nếm, thân có thể không đụng chạm, nhưng nội cái ý không, nó chẳng nghĩ đến vật gì sự gì thì thôi, bằng nhớ nghĩ đến thì người vẫn thấy, vẫn nghe… như sự thật có thật trước mặt (sđd, tr.207). Theo đó, tâm giác hay ý giác, giác quan thứ sáu, là căn nguyên của mọi căn nguyên, là “đầu dây mối nhợ giúp cho con người hoặc vươn tới được sự an nhiên tự tại hoặc lại rơi vào vòng lẩn quẩn của mê muội. Nói một cách  khái quát, mọi tập hợp hành xử của con người như ngũ ấm hay ngũ uẩn, tức những thứ không kể là vô hình hay hữu hình có thể có khả năng che khuất chân tính như sắc uẩn (năm giác quan), thụ uẩn  (cảm thụ), tưởng uẩn (tưởng tượng), hành uẩn (hành động) và thức uẩn (nhận thức) đều bị tâm giác chi phối. Vấn đề là ở chỗ, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà điều chỉnh tâm giác của mình cho thích hợp hoặc là niệm phật hoặc chuyên tưởng Phật A di đà, hoặc tịnh niệm tương tục… để cuối cùng điều khiển được tâm giác của mình.

Thật ra, liên quan đến tâm giác hay ý giác, giáo lý Phật giáo còn bàn đến Mạt na thức và A lại da thức nữa. Vậy chúng liên quan đến tâm giác như thế nào? Đây cũng là một vấn đề rất thú vị, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ở bài sau.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 86
    • Số lượt truy cập : 6602474