VÌ SAO NÓI CHỮ HÁN KHÓ HỌC?
NGUYỄN HẢI HOÀNH
Con người sinh ra đã biết nói, tức năng lực về ngôn ngữ nói là thứ bẩm sinh đã có. Thế nhưng năng lực về ngôn ngữ viết (tức chữ viết) thì phải học mới biết. Chữ viết là một phát minh vĩ đại, không phải dân tộc nào cũng làm được, cho tới nay vẫn có dân tộc chưa có chữ viết của mình. Chữ viết ra đời rất muộn, loài người xuất hiện được cả triệu năm nhưng chữ viết sớm nhất trên thế giới mới ra đời được khoảng dăm nghìn năm. Chữ viết là công cụ ghi lại ngôn ngữ nói, nhờ có chữ viết mà ý nghĩ, lời nói được truyền đi xa và lâu dài, kiến thức và kinh nghiệm được tích lũy và kế thừa, đời sống mọi mặt của xã hội ngày một phát triển nhanh vượt xa thời trước đó. Chữ viết là công cụ quan trọng nhất để tiền nhân truyền thụ tri thức cùng trí tuệ cho các thế hệ sau, và lớp người sau tìm hiểu và học tập lớp người trước. Có chữ viết rồi thì văn minh của nhân loại mới có thể được truyền lại và kế thừa, tri thức mới có thể tích luỹ ngày một dày thêm, xã hội mới có thể phát triển. Tóm lại, chữ viết có vai trò cực kỳ quan trọng. Tỷ lệ số dân biết chữ là chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hóa văn minh của các nước. Chính quyền nước nào cũng phải dốc sức thực hiện mục tiêu toàn dân biết chữ.
Tất cả các dân tộc trên thế giới đều mở đầu nền văn minh của mình bằng tiến trình hình thành chữ viết. Theo nhà ngôn ngữ học Châu Hữu Quang, vào khoảng năm 1300 trước CN, người Trung Quốc làm ra chữ Giáp Cốt, tức chữ khắc trên mai rùa hoặc xương động vật, có thể coi đó là ngày chính thức khai sinh loại chữ về sau được gọi là chữ Hán. Như vậy chữ Hán ra đời rất sớm, chỉ sau chữ Cuineiform (chữ Hình Nêm) của người Sume vùng Lưỡng Hà (3.200 TCN) và chữ Thánh thư (Hieroglyphics) của người Ai Cập.
Chữ Hán đã góp phần quan trọng xây dựng nền văn minh Trung Hoa tiên tiến hàng đầu khu vực, mặt khác còn có công lớn trong việc thống nhất dân tộc Trung Hoa. Chữ Hán có tính biểu ý (ghi ý), không có tính năng biểu âm, cho nên tuy rằng người Trung Quốc mỗi nơi nói tiếng địa phương của mình (phương ngữ), nghe không hiểu nhau nhưng xem chữ Hán thì hiểu nhau, đó là thứ chữ viết thống nhất của tất cả các vùng. Thống nhất chữ viết tạo ra thống nhất văn hóa, tiến tới thống nhất quốc gia dân tộc Trung Hoa. Bởi vậy, chữ Hán có vai trò đặc biệt trong đời sống chính trị, xã hội nước này, trên thế giới không loại chữ viết nào có được địa vị cao như chữ Hán. Biểu ý (ghi ý) là tính chất độc đáo, làm cho chữ Hán khác hẳn các loại chữ viết trên thế giới. Có người nói bên trong hình thể của chữ hàm chứa những thông tin văn hóa cổ xưa phong phú, mỗi chữ đều là hóa thạch sống của văn hóa Trung Hoa. Xưa nay, người Trung Quốc đều tôn thờ chữ Hán như một báu vật thiêng liêng, hình thành tâm lý sùng bái chữ Hán. Tâm lý đó có nguyên nhân sâu xa là chữ Hán thích hợp với Hán ngữ. Sự sùng bái ấy đã làm cho chữ Hán từ ngày ra đời cho đến cuối thế kỷ XIX chưa hề được cải tiến hoàn thiện, những tính chất ban đầu của chữ Hán vẫn giữ nguyên không đổi. Ngoài ra còn do tầng lớp phong kiến thống trị chủ trương dùng chữ Hán làm công cụ độc quyền trí tuệ, chúng thi hành chính sách ngu dân, không muốn cho dân chúng biết chữ, muốn họ mãi mãi ngu dốt để chúng dễ bề áp bức bóc lột.
Nói đến chữ Hán, hầu như người nước ngoài nào cũng cho rằng thứ chữ này rất khó học, khó nhớ, khó viết, khó dùng; chữ Hán cổ lại càng cực kỳ khó. Ngày nay, tuy đã được cải tiến không ít theo hướng đơn giản hóa nhưng chữ Hán vẫn là loại chữ khó hàng đầu thế giới, chỉ có thể học chữ nào biết chữ ấy. Ví dụ, David Moser, Tiến sĩ Hán ngữ người Mỹ, từng ở Trung Quốc 25 năm làm Phó Hiệu trưởng Đại học Yenching thuộc Đại học Bắc Kinh, cũng viết bài “Vì sao Hán ngữ khó học thế”. Dưới đây sẽ bàn qua về một số cái khó trong việc học chữ Hán.
Khó nhất là có quá nhiều chữ, bộ óc người bình thường không có khả năng nhớ hết. Một giáo sư ngôn ngữ ở Bắc Kinh nói ông chỉ nhớ được khoảng 3.000 chữ, trong khi kho chữ Hán cách đây 2.000 năm đã có 9.353 chữ (theo “Thuyết văn giải tự”); đầu thế kỷ XXI có 85.568 chữ (theo “Trung Hoa Tự hải”). Kho chữ Hán hiện nay có gần 100 nghìn chữ tiêu chuẩn (chưa kể chữ Dị thể) đã thẩm định. Căn nguyên sâu xa là do chữ Hán có tính biểu ý, mỗi chữ biểu thị một ý (hoặc hơn một ý). Vì số lượng “ý” nhiều vô hạn và ngày một nhiều nên Hán ngữ cần cực nhiều chữ khác nhau, và ngày càng có thêm chữ mới (như tên nguyên tố hóa học mới phát hiện).
Cái khó thứ hai là kết cấu chữ Hán rất phức tạp, có nhiều nét. “Hiện đại Hán ngữ thông dụng tự biểu” ban hành năm 1988, công bố 7.000 chữ Hán thông dụng, trong đó có nhiều chữ giản thể (tức chữ bớt nét), thế mà bình quân mỗi chữ vẫn có tới 10,75 nét, chỉ 82 chữ không quá 3 nét, 218 chữ không quá 4 nét, chữ nhiều nét nhất có 36 nét. Trong 2.000 chữ Hán tối thiểu quy định người được coi là “không mù chữ” phải biết (Bộ Giáo dục Trung Quốc ban hành năm 1952) bình quân mỗi chữ có 12 nét, 221 chữ có hơn 17 nét, số nét nhiều như vậy quả là khó khăn lớn đối với người mới học chữ Hán. Thời xưa không dùng chữ giản thể, chỉ dùng chữ phồn thể (chữ đủ nét), như vậy số nét còn nhiều hơn nữa, càng khó nhớ, khó viết. Để so sánh, nên biết rằng chữ cái Latin chỉ có nhiều nhất 2 nét. Nhiều chữ Hán rất giống nhau về hình dạng, dễ gây nhầm lẫn. Vì thế, không ai tránh được tình trạng có khi viết sai chữ Hán. Năm 2007, Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc Thiết Ngưng từng bị dư luận chê cười vì khi đề từ cho một tạp chí, bà đã viết chữ Mậu 茂 với phần dưới là chữ Thú 戍 –– đúng ra phải viết 戊.
Chữ Hán lý tưởng nên là mỗi chữ chỉ có một âm một nghĩa. Thế nhưng trên thực tế có tình trạng nhiều chữ Hán có thể đọc 2 hoặc hơn 2 âm khác nhau và có 2 hoặc hơn 2 nghĩa khác nhau. Loại chữ đa âm đa nghĩa (gọi tắt là đa âm) này chiếm khoảng 10% tổng số chữ Hán thông dụng. Như chữ 重 có hai âm [chóng] và [zhòng], 单 có 3 âm [chán], [dan], [shàn], 和 có 5 âm. Khi gặp chữ đa âm đa nghĩa, rất khó biết nên đọc âm nào, hiểu theo nghĩa nào; khiến cho việc dùng chữ Hán rất dễ nhầm lẫn. Thống kê của nhà ngôn ngữ học Châu Hữu Quang cho biết: “Tân Hoa tự điển” bản in 1971 có 734 chữ đa âm, chiếm 10% tổng số chữ Hán trong Tự điển. Nhà ngôn ngữ học Lý Như Long cho rằng nếu thống kê đầy đủ thì trong 8.000 chữ Hán của Tự điển này có tới hơn 1.000 chữ đa âm. Từ điển lớn nhất Trung Quốc là “Từ Hải”, bản in năm 2019 tập hợp hơn 18 nghìn đơn tự, trong đó có 2.641 chữ đa âm, cụ thể gồm: 2.112 chữ hai âm, 422 chữ ba âm, 81 chữ bốn âm, 18 chữ năm âm, 7 chữ sáu âm, 1 chữ tám âm (chữ 那). Trong 2.000 chữ thường dùng tối thiểu để xóa nạn mù chữ ở Trung Quốc, có 334 chữ đa âm, chiếm 17% - một tỷ lệ quá cao, gây khó khăn lớn cho người mới học chữ Hán. Chỉ chữ biểu ý mới có tình trạng đa âm, chữ biểu âm không có tình trạng này. Ví dụ, một người có tên là 圩, tra tự điển thấy chữ này có hai âm đọc là [xū] và [wéi], dù có tra tự điển cũng không biết nên đọc theo âm nào. Phải tra mạng Internet mới biết kết quả. Thời xưa, chưa có tự điển và Internet nên không thể biết chữ nào là đa âm đa nghĩa, vì thế mà không thể tránh khỏi tình trạng đọc sai âm, hiểu sai nghĩa.
Chữ Hán thời cổ lại càng khó học, vì có tình trạng ngoài chữ Chính thể (Chính tự, chữ Tiêu chuẩn) ra còn tồn tại rất nhiều chữ Dị thể –– đây là biểu hiện tình trạng rối loạn không có quy luật trong cấu tạo và sử dụng chữ. Chữ Dị thể là chữ cùng âm cùng nghĩa với chữ Chính thể, nhưng khác ở cách viết. Ví dụ 峯 là chữ Dị thể của 峰; 隄 là chữ Dị thể của 堤. “Dị thể tự tự điển” của Bộ Giáo dục Đài Loan có 100.876 chữ, gồm 29.921 Chính tự và 70.955 chữ Dị thể. Số lượng chữ Dị thể quá nhiều như thế làm cho việc đọc thư tịch cổ trở nên cực kỳ khó khăn, nhất là khi không có tự điển tra cứu. Nói chung, các tự điển hiện đại đều không in hầu hết chữ Dị thể, nhưng như vậy khi đọc thư tịch cổ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Về mặt hành văn, tất cả các thư tịch cổ trước năm 1919 đều viết theo kiểu văn “Văn ngôn” cực kỳ vắn tắt, mỗi bài văn hoặc cả một cuốn sách đều viết trong một dòng, liền một hơi từ đầu đến cuối, không có ngắt câu, xuống dòng, lời văn khác xa lối văn nói hàng ngày (khẩu ngữ), cực kỳ khó hiểu. Lối viết văn này mãi đến thế kỷ XIX mới bị giới học giả tiến bộ phê phán và từ năm 1919, người Trung Quốc mới chuyển sang dùng văn Bạch thoại dễ hiểu hơn. Hiện nay, nhiều thư tịch cổ quan trọng đã được chuyển sang văn Bạch thoại để in và xuất bản.
Về mặt ngữ âm, xưa nay người Trung Quốc hầu như chưa có một tiếng nói thống nhất cả nước, mỗi vùng nói một phương ngữ (tiếng địa phương) khác nhau. Trong hơn trăm năm qua, người Trung Quốc đã ra sức phổ cập tiếng Phổ thông nhưng tới cuối thế kỷ XX vẫn còn 20% dân không biết nói tiếng Phổ thông. Đây là một khó khăn đối với người nước ngoài trong giao tiếp với người Trung Quốc.
Chữ Hán có đặc điểm chữ viết tách rời âm đọc, học chữ nào biết đọc chữ ấy, chưa học thì nhìn chữ không đọc được, nghe đọc không viết được chữ. Đọc chữ Hán theo âm Hán còn gặp một khó khăn là có quá nhiều chữ đồng âm khác nghĩa, khác chữ, do đó khi nghe đọc sẽ rất dễ hiểu nhầm ý và viết nhầm chữ. Như hai chữ 越, 粤 đọc cùng âm [yuè], nếu không nhìn mặt chữ sẽ nhầm nghĩa của 越 là Việt (trong Việt Nam) với 粤 là Việt với nghĩa Quảng Đông. Thống kê theo Tân Hoa Tự điển bản in 2006 cho thấy âm [yuan] có 41 chữ (元, 原, 嫄, 沅, 源, 羱, 芫, 螈, 黿 ....) ; âm [yi] có tới 135 chữ ; cả bộ tự điển gần 9.000 chữ chỉ 22 chữ không có chữ đồng âm, (给 [gei], 能 [neng], 日 [ri], 誰 [shéi] ...), còn lại đều có chữ đồng âm. Tự điển khác nhau thì số chữ đồng âm sẽ khác nhau, thống kê theo “Từ Hải” thì riêng âm [yì] có 195 chữ đồng âm. Chữ đồng âm còn làm thành nhiều từ đồng âm. Như 7 từ 正是、正式、正视、正事、正室、政事、郑氏 cùng đọc một âm [zhèng shì], người nghe không biết nên chọn từ nào.
Ngoài ra, chữ Hán thời cổ còn tồn tại chữ Dị độc, là loại chữ cùng nghĩa nhưng có 2 hoặc trên 2 âm đọc. Ví dụ, chữ 贼 đọc [zéi] hoặc [zé] đều được, chữ 肉 có thể đọc [ròu] hoặc [rù]. Nếu không tra tự điển thì không thể biết chữ nào là chữ Dị độc, và nên đọc chữ theo âm nào. Ngay cả khi có tự điển nhưng chưa có ký tự ghi âm thì cũng không biết nên đọc thế nào.
Cuối thế kỷ XIX, sau khi tiếp xúc với loại chữ biểu âm của phương Tây, giới tinh hoa Trung Quốc nhận thấy chữ biểu âm rất dễ học, chữ Hán biểu ý quá ư phức tạp và khó học, gây khó khăn cho việc nâng cao trình độ biết chữ và trình độ văn hóa của dân Trung Quốc. Từ đó, họ ra sức nghiên cứu cải tiến tìm cách giảm mức độ phức tạp của chữ Hán. Sau khi huy động lực lượng cả nước tham gia phong trào cải cách chữ Hán, cuối cùng người Trung Quốc đã thực hiện được mục tiêu giản đơn hóa kết cấu chữ Hán, làm thành vài nghìn chữ Giản thể (chữ bớt nét) thay cho chữ Phồn thể (chữ đủ nét), giảm được khó khăn trong việc học và dùng chữ Hán. Ngoài ra, còn sáng chế được Phương án phiên âm Hán ngữ, dùng chữ cái Latin ghi âm chữ Hán, tạo thuận lợi cho việc học chữ và phổ cập tiếng Phổ thông, cũng như nhiều thuận lợi khác.
Bình luận bài viết