Thông tin

Y PHÁP BẤT Y NHÂN

 

MINH NGỌC

 

 

Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là khao khát được học Phật, tu sửa thân tâm ngày càng hoàn thiện. Thầy có hảo tướng, có giọng tụng kinh hay, có lời nói nhỏ nhẹ, dịu hòa, có tài đối đáp, có bằng cấp học vị đạo và đời, có kiến thức đời và đạo sâu rộng, có cách ứng xử đẹp v.v..., làm cho Phật tử xiêu lòng và thần tượng. Tuy nhiên, sau đó khi biết vị Thầy đó cũng có những khuyết điểm, hoặc Thầy không đối xử với mình đậm đà như trước, bèn sinh tâm giận bực, thậm chí bỏ Thầy, bỏ đạo, chê bai thậm tệ. Khi Phật còn tại thế, hiện tượng này đã có. Đức Phật từng dạy có 5 lỗi lầm đối với ai hoàn toàn tin tưởng, thần tượng vào Thầy Tỳ kheo của mình nương tựa.

Trường hợp thứ nhất: Vị Tỳ kheo ấy vi phạm giới luật bị chúng từ bỏ.

Trường hợp thứ hai: Vị Tỳ kheo ấy vi phạm giới luật, bị chúng Tăng cử tội Yết ma.

Trường hợp thứ ba: Vị Tỳ kheo ấy đắp y mang bát du hành phương khác.

Trường hợp thứ tư: Vị Tỳ kheo ấy xả giới hoàn tục.

Trường hợp thứ năm: Vị Tỳ kheo ấy thân hoại mạng chung.

Đối với những trường hợp này, người Phật tử tin kính thần tượng vị ấy sẽ nghĩ: “Đây là Thầy của ta, được ta kính trọng, nay bị chúngTăng từ bỏ, chúng Tăng cử tội Yết ma, đã du hóa nơi khác, đã xả giới hoàn tục, đã mệnh chung; nay ta còn lý gì để vào chùa tháp này nữa. Khi đã không còn vào chùa tháp rồi, thì sẽ không kính chúng Tăng. Do không kính Tăng, nên không còn nghe được pháp. Do không còn nghe pháp, pháp lành sẽ bị thoái mất, không còn được an trụ lâu trong Chánh pháp”

(Linh Sơn Pháp bảo Đại Tạng – Kinh Tạp A hàm số 837
- Quá Hoạn - Thích Đức Thắng dịch).

Rõ ràng đây là một thực trạng đã có ngay thời Phật tại thế, khi các Phật tử đã ngưỡng mộ, sùng tín quá mức đối với Thầy của mình, dẫn đến hậu quả đáng tiếc.

Ngay cả đức Phật là bậc đáng được tôn kính trong tất cả (Chúng Trung Tôn), khi đại đệ tử Sariputta khen ngợi tán dương Phật, Phật còn quở trách. “Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi connghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà la môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.

Này Sariputta, lời nói của ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ, ngươi thật là rống tiếng rống con sư tử khi ngươi nói: “Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà la môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ”. Này Sariputta, có phải ngươi đã được biết trong quá khứ, các vị A la hán, Chánh Đẳng Giác, với tâm của ngươi biết được tâm của các vị Thế tôn - Giới đức chư vị Thế tôn là như vậy, - Pháp chư vị Thế tôn là như vậy, - Trí tuệ chư vị Thế tôn là như vậy, - An trú chư vị Thế tôn là như vậy, - Giải thoát chư vị Thế tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!”

(Kinh Tự Hoan Hỷ Sampasadaniya sutta - Trường Bộ Kinh - 
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)

Thiết nghĩ, để tránh những não phiền không đáng có, hàng Phật tử chúng ta, không nên tin tưởng sùng bái quá mức một cá nhân Thầy Tỳ kheo nào cả. Vậy phải nương tựa vào đâu?

Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèncho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác!

Này các Tỳ kheo, thế nào là một Tỳ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác?

Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo sống quán thân trên tự thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời; Tỳ kheo quán cảm thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên các tâm.... quán pháp trên các pháp... nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời. Này các Tỳ kheo, như vậy là Tỳ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác”

(Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư tử hống Cakkavati-Sìhanàda
sutta - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Hãy nương tựa vào chánh pháp. Không những vậy, đó còn là pháp cúng dường tốt đẹp nhất đối với Như lai.

“Này Ananda, các cây sala song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trỗi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai.

Nhưng này Ananda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong chánh pháp, hành trì đúng chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng”

(Kinh Đại bát Niếtbàn (Mahà parinibbàna sutta - Tụng phẩm V
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Đối với các hàng Tỳ kheo đệ tử Phật xuất gia, Phật chỉ rõ cụ thể nương tựa vào mình, lấy chánh pháp để nương tựa chính là Tứ Niệm xứ. Vì sao?

“Này các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ”

(Kinh Đại Niệm XứMahasatipatthana sutta
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Còn đối với hàng Phật tử tại gia chúng ta nương tựa vào Pháp, là pháp gì? Là Phật pháp ư? Quá nhiều bài giảng! Quá nhiều kinh sách! Lời Phật dạy cách đây gần 3.000 năm, được kết tập, biên soạn lại, liệu có trung thực không? Kinh nào? Sách nào? Hán tạng, Pali tạng, Tây tạng?... Quá nhiều Pháp sư, Giảng sư, Thiền sư, Minh sư... nói. Mỗi người mỗi vẻ! Chúng ta tin ai? Làm sao phân biệt đâu là chánh pháp, tà pháp? Đọc bài kinh Kalama, thuộc TăngChi Bộ (Anguttara Nikâya), chúng ta mới thấy trí tuệ của Phật thật siêu phàm, Ngài biết trước những trở ngại của đời sau khi tiếp cận với những lời Kinh pháp.

- “Này các người Kâlâma, đương nhiên phải nghi ngờ, đươngnhiên phải phân vân. Ðối với điều đang nghi ngờ thì phân vân khởi lên.

Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình.

Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh khổ đau; thời này các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi”

(Hòa thượng Thích Thiện Châu dịch).

Đương nhiên là phải có nghi! Có nghi mới có tìm hiểu. Tìm hiểu mới có giác ngộ. Nhiều người cho Pháp là Chân lý, là Chân tâm, là Phật tánh v.v... Ôi cao siêu quá! Mênh mông quá! Trừu tượng quá! Phải biết, Pháp ấy chính là con đường, cuối cùng quay về chính mình trải nghiệm thực tế, không chờ đợi tương lai. Vì sao? Vì pháp của Phật được định nghĩa là thiết thực hiện tại Sandithiko, không có thời gian Akaliko, đến để mà thấy Ehipassiko. Pháp nào không đưa đến đời sống bất hạnh khổ đau?

Đó chính là Năm giới, là căn bản đời sống hạnh phúc an vui, đem đến lợi ích cho mình và mọi người: Không cướp đoạt mạng sống của chúng sanh khác; không trộm cướp tài sản người khác, không xâm hại đời sống vợ chồng người khác; không nói dối trá, ác khẩu, ly gián, thêu dệt; và không say sưa nghiện ngập các thứ độc hại tàn phá thể xác lẫn tinh thần. “Ai ở đời sát sinh/ Nói láokhông chân thật/ Ở đời lấy không cho/ Qua lại với vợ người/ Uống rượu men, rượu nấu/ Người sống đam mê vậy/ Chính ngay tại đời này/ Tự đào bới gốc mình/ Vậy người hãy nên biết/ Không chế ngự là ác/ Chớ để tham phi pháp/ Làm người đau khổ dài”

(Kinh Pháp246/247/248 Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Lại đó chính là con đường Trung đạo từ bỏ hai cực đoan: quá sướng và quá khổ, là Bát chánh đạo, con đường tám nhánh: Chánh Kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

“Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là con đường trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”

(Kinh Tương Ưng - Phẩm Chuyển Pháp luân
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch).

Đây tức là pháp chính yếu, pháp cốt lõi, pháp căn bản, là Phật pháp, để tất cả hàng đệ tử Phật nương vào học tập, thực hành, trải nghiệm đưa đến đời sống lợi ích cho mình và người, hướng đến giác ngộ và giải thoát mọi phiền não khổ đau ràng buộc. Và đó cũng chính là Chánh pháp chúng ta cần nương tựa vào mãi mãi và mãi mãi.

Hiện nay, Phật tử hành trì mỗi người một pháp môn, tùy theo căn cơ. Nếu pháp môn nào tu hành, hay giáo lý nào học tập không dựa trên nền tảng Năm giới và Bát Chánh đạo, còn đưa đến lòng tham cầu, van xin, không đoạn diệt tận ái luyến, chấp trước, không hướng đến an lạc, tịch tịnh thân tâm, và giải thoát phiền não trong hiện tại, pháp ấy chắc chắn không phải là chánh pháp để chúng ta nương tựa vậy.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 3)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 2)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 1)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 18
    • Số lượt truy cập : 6673316