Thông tin

YÊU NƯỚC TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO

 

TS. HOÀNG VĂN LỄ

 

Phong trào chấn hưng Phật giáo khơi dậy từ những nhà sư yêu nước, những người thấu hiểu văn hóa Phật giáo gắn kết với văn hóa dân tộc từ lịch sử hàng ngàn năm của nước ta, chấn hưng Phật giáo tức góp phần chấn hưng văn hóa nước nhà, trong đó yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.

Yêu nước là một truyền thống hàng đầu của dân tộc ta, một đất nước hàng ngàn năm luôn phải chống đỡ với gần hai mươi cuộc ngoại xâm và đã chiến thắng, đảm bảo sự tồn tại trên đất nước ta ngày nay. Xuyên suốt quá trình đấu tranh đó, văn hóa Phật giáo hòa quyện chặt chẽ, đến mức dân ta không nghĩ rằng đây là văn hóa nhập nội từ hàng ngàn năm trước. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã thống trị nước ta, khống chế và tìm cách xóa sạch các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, chính sách ngu dân và chia để trị được thực hiện xuyên suốt, một bộ phận khá lớn văn hóa dân tộc trong đó có văn hóa Phật giáo bị hao mòn lệch chuẩn.

Những người trí thức yêu nước thấy rõ nguy cơ diệt vong này, tìm mọi phương cách để chấn hưng, nhiều người và nhiều phong trào nổi lên, đến mức nào đó thì bị chính quyền thực dân truy sát tiêu diệt. 20 đến 30 năm đầu thế kỷ XX, các sắc thái phong trào chấn hưng văn hóa nước nhà bị dìm và kìm chặt. Tuy vậy, một phong trào tương đối thành công là phong trào chấn hưng Phật giáo trên khắp ba kỳ của đất nước, sôi nổi bậc nhất là phong trào ở Nam kỳ do Hòa thượng Lê Khánh Hòa kiên tâm thuyết phục và phát động; phong trào không công khai chống lại chính quyền thực dân Pháp song đã quy tụ được những trí thức yêu nước và phát huy nền tảng văn hóa dân tộc, yêu nước được tái khẳng định, hình thành và hỗ trợ cho cuộc vận động chống thực dân giành độc lập của dân tộc ta vào tháng 8 năm 1945.

Một trong những trí thức gắn kết và tác động tinh thần yêu nước trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ là Cụ Nguyễn Sinh Sắc, người chung lòng chung sức với sư Khánh Hòa, đã góp phần dậy lên phong trào và được lưu truyền suốt cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc ta.

Nguyễn Sinh Sắc: Nhà Nho khoa bảng yêu nước

Chúng ta đều biết, Cụ Nguyễn Sinh Sắc là thân sinh của Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chủ tịch; sinh năm 1862 (Nhâm Tuất) tại làng Kim Liên, Nghệ An. Năm 1894 (Giáp Ngọ), Cụ đứng thứ 12 trong 20 người thi đỗ Cử nhân của trường Nghệ An. Năm 1901 (Tân Sửu), Cụ thi đỗ Phó bảng được hưởng đặc ân như Tiến sĩ, được vua ban cờ biển vinh quy bái tổ. Cụ Sắc là người thông minh, đức hạnh và khiêm cung nên dân làng ai cũng kính nể. Cụ được tôn vinh là một trong bốn danh nhân đương thời ở làng Sen “Nam Đàn Tứ Hổ”, được bà con ca tụng “Uyên bác bất như San, Tài hoa bất như Quí, Cường ký bất như Lương, Thông minh bất như Sắc”. Lúc đương thời hoạt động của mình, Cụ là một trí thức Nho giáo khoa bảng, là người đã ra làm quan và rồi lại về làm dân; tuy vậy tâm trí của người yêu nước không làm ông buông bỏ, tìm kiếm và dấn thân trong công cuộc kháng Pháp trong suốt cuộc đời sau quan lại của mình, nhất là giai đoạn cuối đời ở vùng đất Cao Lãnh.

Quá trình hành trì của Cụ Nguyễn Sinh Sắc ở đất Nam kỳ

Khi làm Tri huyện Bình Khê, "Nhân vụ một tên cường hào bị ông bắt giam rồi bị chết sau khi thả ra hai tháng, ông bị triều đình phạt 100 trượng, sau giáng bốn cấp và thải hồi.

Ông vào Phan Thiết tháng 3-1911, rồi đến Sài Gòn, cùng Nguyễn Tất Thành xuống Mỹ Tho gặp Phan Chu Trinh, trong lúc Phan Chu Trinh đang chuẩn bị sang Pháp.

Ông đi khắp các tỉnh Nam Bộ và đôi lần sang tận Campuchia. Đến đâu, ông cũng tìm cách quan hệ với các nhà sư, nhà Nho yêu nước, chính trị phạm của các phong trào Cần vương, Đông Du, Duy Tân bị an trí, hoặc đang lẩn tránh mật thám Pháp… Ông giúp nhiều chùa ở Nam kỳ dịch, chú giải kinh, góp nhiều ý kiến cho phong trào Chấn hưng Phật giáo do Hòa thượng Khánh Hòa khởi xướng. Hiện một số chùa còn bút tích và một số câu đối nổi tiếng của ông.

Năm 1917, ông về Cao Lãnh, kết thân với nhiều nhà Nho yêu nước trong đó có ông Lê Văn Đáng (Chánh nhất Đáng), Trần Bá Lê (Cả nhì Ngưu), gặp Võ Hoành (Cử Hoành). Ông Trần Bá Lê cất cho ông một gian nhà nhỏ để ông xem mạch cho toa và dạy nghề thuốc. Ông ở Cao Lãnh đến hết năm 1919.

Ông quan hệ với nhiều tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Đồng bằng sông Cửu Long và thường xuyên bị mật thám bám sát theo dõi. Nhưng do ông rất cẩn thận, nên mật thám không có đủ chứng cứ để bắt ông.

Đầu năm 19281, ông về ở Cao Lãnh. Tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Cao Lãnh, đứng đầu là Phạm Hữu Lầu, cho người sắp xếp ông về ở nhà ông Năm Giáo. Hàng ngày, ông đến tiệm thuốc Bắc Hằng An Đường ở chợ Cao Lãnh xem mạch ra toa, buổi chiều ở nhà làm thuốc. Người giàu, ông lấy tiền; người nghèo ông xem giúp và bốc thuốc không lấy tiền.

Cuối tháng 11-1929, ông lâm trọng bệnh và qua đời, được đồng bào Hoà An, Cao Lãnh chôn cất tử tế bên cạnh chùa Hòa Long (nay thuộc phường 4, thành phố Cao Lãnh). Trong thời gian tập kết chuyển quân năm 1954, mộ ông được bộ đội và đồng bào địa phương tôn tạo và bảo vệ trong suốt thời kỳ chống Mỹ. Sau năm 1975, mộ ông được kiến tạo to đẹp, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích Văn hóa lịch sử cấp quốc gia. Hàng năm có đến hàng trăm ngàn lượt đồng bào trong nước và khách nước ngoài đến viếng”2.

Những biểu hiện tinh thần yêu nước gắn với công cuộc chấn hưng Phật giáo của Nguyễn Sinh Sắc

Năm 1922, chùa Kim Tiên (Cai Lậy) tổ chức lễ khánh thành, ông Nguyễn Thành Long (Hương cả Siếu) có nhờ Cụ Nguyễn Sinh Sắc viết tặng đôi liễn đối. Cụ viết:

Đại đạo quảng khai thố giác khêu đàm để nguyệt;

Thiền môn giáo dưỡng qui mao thằng thụ đầu phong”

Tạm dịch:

Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước;

Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây”

" ...Thông qua đôi câu đối này, điều mà chúng ta nhận thấy Cụ Sắc rõ ràng là bậc uyên thâm Phật học, nhất là Cụ rất tinh thông thiền lý, bởi những thiền ngữ mà Cụ Sắc sử dụng trong câu đối như “lông rùa”, “sừng thỏ”, “mò trăng đáy nước”, đều là những pháp ngữ rất cô đọng, thẳng tắt mà Đức Phật và các bậc Tổ sư dùng để khai thị khuyến cáo những điều hư ảo hay nhắc nhở hàng đệ tử không nên thực hiện một việc làm không mang lại kết quả. Nếu không phải là bậc học Phật uyên thâm thì làm sao Cụ Sắc có thể vận dụng thiền ngữ để diễn đạt được những ý tưởng thầm kín thâm sâu một cách linh hoạt táo bạo như vậy? Mặt khác, qua đôi liễn này, chúng ta mới thấy rõ quan điểm của Cụ Sắc trong bối cảnh đất nước chìm trong biển khổ đau thương của thực dân Pháp. Cụ Sắc đã cùng một lúc vừa khơi dậy tinh thần yêu nước, tỉnh thức hàng học giả trí thức hãy nhìn kỹ tình hình thực tiễn của đất nước, vừa thầm kín chấn hưng Phật giáo bằng cách định hướng tâm hạnh cho hàng Tăng lữ trước yêu cầu cấp bách của toàn dân tộc là giải phóng đất nước thoát ra khỏi ách lầm than nô lệ”3.

Vào cuối quý III năm1923, Cụ về chùa Linh Sơn cùng với các nhà sư Khánh Hòa, Khánh Anh, Thiện Chiếu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho cuộc chấn hưng. Trước cổng chùa Linh Sơn xuất hiện ngay câu đối:

Phật pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế;

Từ bi nải sát sanh dĩ độ chúng sanh

Tạm dịch:

Đạo Phật là nhập thế chứ không yếm thế;

Từ bi (lắm lúc) phải sát sanh để cứu chúng sanh

Nội dung câu đối này, thật sự vượt ra khỏi suy nghĩ và tập quán “Từ bi” thường tình của những người con Phật. Bởi đối với tâm từ bi của bất cứ một Phật tử nào thì một chữ “Sát” dù hiểu theo nghĩa nào cũng là phạm giới “sát sanh”, cũng là bất nhẫn.

Đương vi tất vi lệnh danh dĩ di phụ mẫu,

Tích thiện phùng thiện, phúc hựu khán nhi tôn.

Tạm dịch:

Việc nên làm phải làm, nêu tên tốt để vui lòng cha mẹ.

Tích thiện thì gặp điều thiện, có phúc đức thấy ở chỗ con cháu.4

Trong một tham luận khoa học của Thượng tọa Thích Huệ Thông có đoạn: “Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã rất tích cực tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo, xem đây là phương tiện tối ưu để khơi dậy lòng yêu nước, lấy đạo Phật làm trung tâm để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

... Năm 1927, trước khi rời chùa Tiên Linh, Cụ viết đôi liễn tặng Hòa thượng Khánh Hòa:

Như thị Như Lai, xuất thế khai thông, hướng dẫn mê đồ quy Phật pháp.

Trí vi Trí giả, hiện thân thuyết pháp, hô hào tri thức thượng thiên lai

Tạm dịch:

Đích thực Như lai, xuất thế khai thông, hướng kẻ mê quay về pháp Phật.

Thật là bậc Trí, hiện thân thuyết pháp, hô hào hàng trí đến cõi Thiên”.

Nội dung hai câu đối này một lần nữa thể hiện rõ tinh thần cổ súy khích lệ công cuộc chấn hưng Phật giáo đương thời phát triển, đồng thời nó cũng phản ảnh tâm tư nguyện vọng của chính Cụ Sắc là cần phải gấp gáp hướng dẫn quần chúng Phật tử quay về Chánh pháp, phải kêu gọi đội ngũ trí thức kịp thời dấn thân phục vụ nhân sinh để đất nước mau chóng thanh bình thịnh trị (Hô hào Trí thức Thượng Thiên lai chính là nghĩa này vậy). Theo Cụ Sắc, có thực hiện được ý tưởng này thì mới “Đích thực là Như Lai”, mới “Đích thực là bậc Trí””5.

Cuối tháng 11/1929, Cụ Sắc lâm trọng bệnh và qua đời ngày 26-11- 1929 (tức ngày 26 tháng 10 năm Kỷ Tỵ), thọ 67 tuổi tại chùa Hòa Long, được đồng bào Hòa An, Cao Lãnh chôn cất chu đáo.

Tư tưởng và cuộc đời của Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã chứng minh Cụ là một người yêu nước, thương dân, biết xả thân cho đại nghĩa, lấy quốc gia làm trọng; là một nhà học Phật uyên thâm, một tín đồ đạo Phật, tư tưởng nhập thế tích cực của Phật giáo.

Mối quan hệ giữa cụ Nguyễn Sinh Sắc và sư Khánh Hòa

Tiến trình vận động chấn hưng Phật giáo của sư Khánh Hòa

Cuộc vân du của Sư Khánh Hòa khắp Nam kỳ thuyết phục giới tăng sĩ tham gia thực hiện chấn hưng Phật giáo từ năm 1926-1929 và các năm tiếp theo. Theo bài "Tự trần" đăng trên tạp chí Phật hóa Tân thanh niên ra tháng 9-1929, sư Khánh Hòa nêu lên hành trình và nhật ký của mình trong công cuộc vận động lập trường, ra báo để giảng dạy Phật pháp cho tăng ni. Tóm tắt như sau:

Từ giữa năm Bính Dần (1926), bước đầu cùng các vị hòa thượng sang nhà quan Huyện hàm Cửu (tức Huỳnh Thái Cửu) "yêu cầu sửa đạo"..., Sa môn Huệ Quang (chùa Long Hòa) bảo với sư Khánh Hòa phải chủ động để giải vây tình trạng "Tăng đồ hủ bại, Phật giáo suy vi!".

Tháng 2 năm Đinh Mão (1927), sư Khánh Hòa bàn với ông Huệ Quang một lần nữa để ra Trung kỳ kiết hạ, để năm bắt tình hình và quy tụ thêm người cùng chí hướng.

Tháng 5, sư Khánh Hòa gặp Thiện Chiếu, được cho xem vài quyển Hải Triều Âm của Trung Hoa, động viên hành trạng của mình.

Mồng 10 tháng 7, giải Hạ, sư Khánh Hòa về Sài Gòn, được Thiện Chiếu khuyên phải "cấp tấn", được xem chương trình của Phật giáo hội Trung Hoa thêm thôi thúc thực hiện vận động.

Tháng 8, sư Khánh Hòa cùng Huệ Quang lên các chùa ở Sài Gòn vận động, song chưa được các sư "phán một lời gì".

Năm Mậu Thìn (1928), sư Khánh Hòa hợp cùng Huệ Quang, Từ Nhẫn, Chơn Huê, Thiện Chiếu dự định tổ chức Phật học viện, Thư xã; được ông Trần Nguyên Chấn và Ngô Văn Chương hỗ trợ tài chánh và được thầy Thiện Niệm (chùa Viên Giác), thầy Từ Phong (chùa Liên Trì) quyên trợ ít nhiều.

Năm Kỷ Tỵ (1929), 27 tháng giêng khởi hành; 28 và 29 dự đám trai đàn ở Giồng Miễu; mồng 1 tháng 2 qua Mỹ Tho; mồng 2 xuống tàu, mồng 3 tới Châu Đốc vào chùa Phi Lai gặp sư trụ trì bàn về việc lập Thư xã và Phật học đường, Hòa thượng cúng 300 đồng. Vài ngày sau đến chùa Pháp Võ, giáo thọ của chùa cúng 50 đồng, đưa trước 20 đồng; kế đến chùa Kiến Phước; mồng 9 đến chùa Hòa Thành cổ ở Cây Mít (Nhà Bàn); mồng 10 đi Takeo đến chùa An Phước; 11 đi Nam Vang, nơi đây có 4 chùa người Việt không được kết quả gì; 12 viếng Phật học trường; 13 đáp tàu về Sa Đéc nghỉ ở chùa An phước; 14 xuống Vĩnh Long ở chùa Long Thuyền; 15 qua Cần Thơ, rồi đến Sóc Trăng, qua Bãi Xàu nghỉ ở chùa Phước Hòa An; 16 theo ghe tới Trường Kỳ, rồi theo ghe qua chùa Quán Âm (Đại Ngãi) nghỉ ở đây 3 ngày; 20 đi Bạc Liêu đến chùa Long Phước, ở lại đây 3 ngày được Hòa thượng ủng hộ 20 đồng; 23 đến chùa Giác Hoa; 24 đáp xe lên Cần Thơ đến chùa Hội Linh, rồi đến chùa An Phước (Trà Nóc); 26 trở lên Sa Đéc; 27 cùng thầy trụ trì chùa An Phước bàn thảo cả đêm câu chuyện trùng hưng Phật giáo; 29 xuống tàu về Rạch Giá đến chùa Tam Bảo; 30 qua chùa Thập Phương không gặp thầy chủ trì, mời thầy Ký sang chùa Tam Bảo bàn việc nhưng không đạt kết quả gì. Sáng mồng 1 tháng ba, cùng Hòa thượng Tam Bảo xuống tàu thủy đến chùa Hòn Quéo, nơi đây đang xây dựng cảnh chùa nhìn về biển Nam, tối bàn việc lập Phật học đường nhưng bị từ chối vì mắc "công kia việc nọ"; mồng 6 xuống tàu về chùa An Phước; mồng 7 đến chùa Kim Hoa (Sa Đéc) bàn chuyện với thầy Yết Ma, được cúng 60 đồng; mồng 8 đáp xe về Trà Vinh, 10 xuống tàu về Bến Tre, xuống thẳng Ba Tri, 11 trở lên Bến Tre ghé chùa Viên Giác, 12 trở lại Thư xã.

Như vậy, suốt 45 ngày từ 27 tháng giêng đến 12 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929); Hòa thượng Khánh Hòa đi khắp Nam kỳ và đến tận Nam Vang; phương tiện gồm xe, ghe, tàu thủy, ra tận Hòn Quéo; vận động gần 20 ngôi chùa để cùng chung sức lập Phật học đường (tức trường) và Thư xã (báo chí). Kết quả rất hạn hữu.

Từ năm 1930, công cuộc vận động đạt kết quả bước đầu; Hòa thượng Khánh Hòa là người sáng lập Nam kỳ Phật học hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội, quy tụ nhiều cao tăng, cư sĩ Phật giáo ở Nam kỳ lúc bấy giờ. Ngoài ra, sư Khánh Hòa còn là chủ bút tạp chí Từ bi âm, Giám đốc Phật học tùng thư... Theo nhận xét xác đáng của Hòa thượng Thích Trí Quảng: "Hòa thượng Khánh Hòa đã theo mô hình Phật giáo Nhật, nhưng ngài không xây dựng đại học ở thời đó được. Ngài mở Trường Lưỡng Xuyên Phật học để đào tạo Tăng tài là chính. Ngài đã bán chùa Tiên Linh để thỉnh bộ Đại chánh tân tu của Nhật làm tư liệu giảng dạy chư Tăng. Thành thật mà nói việc làm này của Hòa thượng vào thời đó ít ai chấp nhận. Và ngài thỉnh các Hòa thượng có khả năng làm giáo thọ giảng dạy, chính yếu là Hòa thượng Khánh Anh là một nhà Nho nổi tiếng, thêm nữa là Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc6. Những nhà Nho nổi tiếng thời đó đã trở thành tu sĩ Phật giáo, hay cư sĩ Phật tử. Ở Vũng Tàu có Hòa thượng Huệ Đăng là nhà cách mạng yêu nước đã trở thành tu sĩ.Những người này đã khơi dậy việc học và hiểu giáo lý Phật để tìm ra hướng đi phù hợp với xã hội đánh dấu thời kỳ Phật học đường ra đời.

Trường Lưỡng Xuyên Phật học đào tạo được các bậc cao đức như Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Thiện Hòa. Ở Thiên Thai, Tổ Huệ Đăng đã đào tạo Hòa thượng Minh Nguyệt, Hòa thượng Pháp Linh, Hòa thượng Thiện Hào và sau này, những vị xuất thân từ đây hầu hết tham gia cách mạng"7.

Hội ngộ giữa Cụ Nguyễn Sinh Sắc và sư Khách Hòa

Ngày 24-8-1922, Cụ Nguyễn Sinh Sắc chính thức thụ giáo quy y với Hòa thượng Hồng Đại - Bửu Phước chùa Sùng Phước, Châu Hộ, Phnôm-Pênh, với Pháp danh Nhật Sắc tự Thiện Thành. Cụ thường xuyên nghiên cứu Phật học, chọn chùa Linh Sơn, Sắc tứ Từ Ân để nghiên cứu Tam tạng kinh điển. Cụ rất uyên thâm Phật học.

Năm 1923, Cụ về chùa Linh Sơn cùng với quý Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Thiện Chiếu bắt tay ngay vào việc khơi mào cho cuộc chấn hưng. Cuối năm 1923, tại chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một), do uy tín của Hòa thượng Từ Văn, cùng với Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, các vị đã tổ chức được Hội Danh dự Yêu nước. Hội chủ yếu truyền bá tư tưởng yêu nước, chấn hưng Phật giáo thông qua các buổi thuyết giảng giáo lý, mở lớp dạy chữ Nho, dạy bốc thuốc… Hình ảnh cụ đồ xứ Nghệ đã để lại ấn tượng tốt đẹp và tình cảm sâu sắc cho giới Phật giáo cũng như của đông đảo đồng bào.

Trước cổng chùa Linh Sơn xuất hiện ngay câu liễn đối của Cụ Nguyễn Sinh Sắc:

Phật pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế;

Từ bi nải sát sanh dĩ độ chúng sanh.

Dịch là:

Đạo Phật là nhập thế chứ không yếm thế;

Từ bi (lắm lúc) phải sát sanh để cứu chúng sanh.

Thượng tọa Thích Huệ Thông, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương nhận xét: "Nội dung câu đối này, thật sự vượt ra khỏi suy nghĩ và tập quán “Từ bi” thường tình của những người con Phật. Bởi đối với tâm từ bi của bất cứ một Phật tử nào thì một chữ “Sát” dù hiểu theo nghĩa nào cũng là phạm giới “trọng”, cũng là bất nhẫn. Song ngẫm nghĩ sâu xa, mới thấy rằng, đây chính là tâm Bồtát, chính là hạnh Bồtát, chính là tinh thần Bi – Trí – Dũng cao tột của Phật giáo. Điều này quả thật táo bạo, thẳng thắn, dứt khoát. Cảm nhận của người viết bài này, ẩn tàng ở đó tầm nhìn trí tuệ và ở đó là tâm đại bi lân mẫn của một thiền sư đã thông suốt lý tánh. Đây mới là con người đầy đủ cả bản lĩnh lẫn trí tuệ để dấn thân vào công cuộc chấn hưng Phật giáo trong hoàn cảnh đạo Phật vẫn còn nhiều hạn chế bởi tầm nhìn và những trói buộc theo quan niệm thường tình trong chốn thiền môn. Chính vì niềm khao khát chấn hưng Phật giáo nên từ lúc Nguyễn An Ninh về nước, Cụ Sắc tìm cách bí mật gặp Nguyễn An Ninh (người cùng thế hệ với Nguyễn Ái Quốc và sư Thiện Chiếu) để bàn về mối tương quan và cộng hưởng giữa Phật giáo với dân tộc, đây là vấn đề mà cụ rất quan tâm".

Đầu năm 1927, Cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng một vị cao tăng của chùa Từ Đàm ở Huế đến Chùa Tiên Linh. Tại đây, Cụ Phó bảng được sự bao bọc, giúp đỡ của Hòa thượng Khánh Hòa. Từ năm 1927 đến 1929 khi lưu trú tại chùa, Cụ Sắc đã mở lớp dạy học, xem mạch bốc thuốc cho nhân dân trong vùng, và cùng Hòa thượng Khánh Hòa bàn việc dân, việc nước.

Trước khi rời chùa Tiên Linh, Cụ viết đôi liễn tặng Hòa thượng Khánh Hòa:

Như thị Như Lai, xuất thế khai thông, hướng dẫn mê đồ qui Phật pháp;

Trí vi Trí giả, hiện thân thuyết pháp, hô hào trí thức thượng Thiền lai

Tạm dịch:

Đích thực Như lai, xuất thế khai thông, hướng kẻ mê quay về pháp Phật; Thật là bậc Trí, hiện thân thuyết pháp, hô hào hàng trí đến cõi Thiền.”

Thượng tọa Thích Huệ Thông nhận xét: "Nội dung hai câu đối này một lần nữa thể hiện rõ tinh thần cổ súy khích lệ công cuộc chấn hưng Phật giáo đương thời phát triển, đồng thời nó cũng phản ảnh tâm tư nguyện vọng của chính Cụ Sắc là cần phải gấp gáp hướng dẫn quần chúng Phật tử quay về Chánh pháp, phải kêu gọi đội ngũ trí thức kịp thời dấn thân phục vụ nhân sinh để đất nước mau chóng thanh bình thịnh trị (“Hô hào trí thức thượng Thiền lai” chính là nghĩa này vậy). Theo Cụ Sắc, có thực hiện được ý tưởng này thì mới “Đích thực là Như Lai”, mới “Đích thực là bậc Trí”"8.

Theo Đảng bộ địa phương xã Minh Đức, Cụ Sắc kết hợp cùng với ông Trần Hữu Chương, đảng viên đảng Tân Việt được cử về xã Minh Đức gầy dựng cơ sở, mở lớp học cho thanh niên và cả những người trong tổ chức hội kín Nguyễn An Ninh. Cụ Sắc thường gặp gỡ các ông Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát, và trong số họ sau này có người trở thành lớp đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre.

Chùa Tiên Linh được sư Khánh Hòa đổi thành Tuyên Linh năm 1930 là theo sự góp ý của Cụ Phó bảng trước đó. Cụ giải thích: Tuyên là tuyên truyền. Về phần mình, Hòa thượng Lê Khánh Hòa ngoài tụng kinh niệm Phật, ông luôn động viên các tín đồ Phật giáo tham gia hoạt động cách mạng và kháng chiến.

Năm 1929, Cụ Phó bảng lâm bệnh và bị bọn mật thám Pháp theo dõi nên Hòa thượng Khánh Hòa đã tìm cách đưa Cụ về Đồng Tháp, và Cụ Sắc mất ở chùa Hòa Long, hưởng thọ 67 tuổi (như nêu ở đoạn trên).

Tinh thần yêu nước trong phong trào chấn hưng Phật giáo

Về yêu nước, Giáo sư Trần Văn Giàu nhấn mạnh9, đây là “Sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam”, là “lý thường hằng” tìm được bằng tổng kết lịch sử. Trước hết từ nguồn gốc lịch sử nhiều ngàn năm của dân tộc ta, Nhà nước Văn Lang xuất hiện rất sớm khoảng 2.000 năm, hợp nhất tự nguyện của 15 bộ lạc anh em, có cương vực ổn định, có văn hóa rực rỡ, có sức mạnh vật chất đáng kể… Thứ đến là chuỗi dài các cuộc chiến tranh chống xâm lăng của những nước lớn mạnh hơn gắp nhiều lần, trong đó 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông, đánh đổ quân Minh, phá tan quân Thanh, và các cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc các loại (Pháp, Nhật, Mỹ, Trung Quốc).

Văn hóa Phật giáo gắn kết chặt chẽ với lịch sử dân tộc, trở thành một nhân tố căn bản trong văn hóa dân tộc nhất là thời kỳ huy động toàn dân chống quân xâm lược, tiêu biểu là thời Trần với ba lần chống Nguyên Mông thắng lợi. Lịch sử nước ta luôn khẳng định, Phật giáo được thừa nhận là nền tảng văn hóa dân tộc, đến mức nhiều người không nghĩ đây là triết lý du nhập từ ngoài nước.

Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đô hộ nước ta xấp xỉ 70 năm, sự suy đồi hay xuống cấp của văn hóa dân tộc do chính sách ngu dân của chế độ thực dân hà khắc gây nên, do đó chấn hưng văn hóa dân tộc, trong mục tiêu canh tân, trên cơ sở cội nguồn văn hóa dân tộc là việc làm của nhiều nhà yêu nước gắn liền với xu hướng hay phong trào của chính họ, tiêu biểu như phong trào Duy Tân, Đông Du... Trong bối cảnh ấy, như Thiện Chiếu nhận xét: "Phật giáo nước ta suy đồi do nơi tăng đồ thất học, tăng đồ ví cũng như nguyên khí, nguyên khí suy mòn tất nhiên sinh nhiều quái chứng; muốn khỏi biến sinh quái chứng và thân thể được bình phục như xưa thì phải bồi thực nguyên khí. Vậy muốn Phật pháp trùng hưng, thì ai là tăng đồ hoặc tín đồ nữa cần phải nghiên cứu Phật học"10. Như vậy, chấn hưng Phật giáo là một xu hướng sâu sắc, không trực diện chống chế độ thực dân, chỉ tạo nền móng con người (tức nguyên khí) cho Phật giáo chuyển đúng hướng, đúng hướng trong văn hóa Phật giáo đồng nghĩa với văn hóa dân tộc, mà yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử nước ta.

Do đó, Nguyễn Sinh Sắc và nhiều nhà Nho khác đã hướng đến, thân thiện và ngưỡng mộ Phật giáo để tìm kiếm và tạo dựng tinh thần yêu nước, cầu mong khởi xướng việc cứu nước, giúp dân trong cơn khốn cùng của chế độ thuộc địa.

Thượng tọa Thích Huệ Thông nhận xét: "... chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ phần nào chủ đích chấn hưng Phật giáo của Cụ Nguyễn Sinh Sắc, chính là để tăng cường sức mạnh vệ quốc của dân tộc trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Đây là điều rất phù hợp với quan điểm và truyền thống yêu nước của Phật giáo. Điều này đã được minh chứng và ghi lại trong nhiều giai đoạn lịch sử đất nước bị ngoại bang xâm chiếm. Đồng thời, thông qua những tư liệu được trình bày trong tham luận này, chúng tôi cũng nhằm làm sáng tỏ vấn đề Cụ Nguyễn Sinh Sắc là một Phật tử tinh thông Phật học, qua đó khẳng định quan điểm, muốn giải phóng dân tộc thì cần phải chấn hưng Phật giáo như suy nghĩ và hành động của Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc"11.

Hội Danh dự Yêu nước lập năm 1923, Nam kỳ Phật học hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội lập năm 1930 và nhiều tạp chí Phật học ra đời, có sự tham gia của các nhà Nho và các nhà sư giàu lòng yêu nước, thương dân. Xu hướng yêu nước trong trào chấn hưng Phật giáo, giai đoạn ra đời chưa công khai phát động tinh thần yêu nước trong tín đồ Phật giáo, còn gói gọn trong việc đào tạo bồi dưỡng tăng ni, chống mê tín dị đoan, nâng tầm trí tuệ trong học và hành trì Phật pháp. Giai đoạn nền tảng này là cơ sở để tăng ni và Phật tử thực hành tinh thần yêu nước khi thời cơ hành động chuyển đến (tháng 8-1945); và trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều chùa Nam Bộ góp nhiều công sức đấu tranh giải phóng dân tộc, như chùa Tuyên Linh một điển hình là nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng, hai lần bị bom đạn giặc phá hủy và đốt chùa12.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, được Nguyễn Ái Quốc dày công tuyên truyền huấn luyện suốt thập kỷ 20, từ báo chí như báo Thanh niên (21-6-1925) đến Hội Thanh niên Cách mạng Viêt Nam, mở nhiều lớp huấn luyện "Đường kách mệnh" với cả ngàn người tuyển từ Việt Nam sang học; các nhân tố này trở thành nguồn chủ lực trong phong trào yêu nước của nước ta thời bấy giờ. Khi Đảng Cộng sản thành lập, tập họp và lãnh đạo nhân dân ta vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ với bao lớp cán bộ, đảng viên hy sinh để có được Mặt trận Việt Minh và Cách mạng tháng 8-1945 giành độc lập trên cả nước. Chắc chắn, trong toàn cuộc vận động yêu nước, cách mạng này được phong trào chấn hưng Phật giáo và các nhà sư yêu nước như sư Khánh Hòa, Thiện Chiếu... tiếp biến trong hành trì của mình.

Hòa thượng Lê Khánh Hòa sau Cách mạng tháng 8-1945 đã động viên các nhà sư và tín đồ Phật giáo tham gia vào các hoạt động cách mạng và kháng chiến. Năm 1947, do tuổi già sức yếu, ông thường căn dặn học trò thân tín vận động tín đồ tích cực tham gia kháng chiến, tin tưởng vào chính phủ Cụ Hồ. Ngày 19-6-1947, biết mình không qua khỏi, ông tắm rửa sạch sẽ, thay đạo phục, rồi hướng về Bắc, nói những lời chúc tụng cuối cùng về nhà nước độc lập, về sức khỏe của Hồ Chủ tịch, sau đó niệm Phật rồi viên tịch. Nhận thức và hành động yêu nước của sư Khánh Hòa chắc chắn hun đúc từ quá trình tiếp xúc, trao đổi với các nhà Nho yêu nước trong suốt phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ.

Kết luận

1. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ khởi đầu từ cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, kết quả vào ngưỡng năm 30 với các Phật học đường và trên tạp chí Phật học. Tinh thần chấn hưng không chỉ củng cố các hoạt động của tăng ni, của các chùa mà qua đó hun đúc kết nối với phong trào yêu nước sôi nổi lức bấy giờ. Phong trào chấn hưng Phật giáo khơi dậy từ những nhà sư yêu nước, những người thấu hiểu văn hóa Phật giáo gắn kết với văn hóa dân tộc từ lịch sử hàng ngàn năm của nước ta, chấn hưng Phật giáo tức góp phần chấn hưng văn hóa nước nhà, trong đó yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Các nhà sư tiêu biểu và tích cực tổ chức thực hiện là Hòa thượng Khánh Hòa, sư Thiện Chiếu...

2. Chấn hưng Phật giáo được sự góp sức đáng kể và hiệu quả của các nhà Nho yêu nước, từ lòng yêu nước thương dân các vị tìm kiếm nhiều phương thức hoạt động, một phương thức truyền thống của lịch sử nước ta là nguồn văn hóa Phật giáo. Các nhà Nho này đã quy y và trở thành các nhà Phật học uyên thâm, có vị mặc áo càsa, có vị gắn với hoạt động từ thiện của các chùa để qua đó vận động tinh thần yêu nước đối với đông đảo Phật tử. Đó là chí hướng của Cụ Nguyễn Sinh Sắc, sau khi từ quan đã du hành khắp các tỉnh Nam kỳ, thường lưu trú ở các chùa, bàn việc chấn hưng Phật giáo và hướng dẫn hoạt động yêu nước, đồng thời làm thuốc và dạy học. Đây là phương thức khả dĩ đối với nhà Nho đang thời bế tắc trong hành trình tìm kiếm con đường cứu nước, tác dụng hữu hạn nhưng sâu sắc. Và khi đường lối cứu nước được vạch ra đúng đắn, chấn hưng văn hóa trở thành giá đỡ cho công cuộc cứu nước giành độc lập. Cách mạng tháng 8-1945 đã minh chứng cho phong trào chấn hưng văn hóa Phật giáo, liền sau đó là các cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân ta; các nhà sư và Phật tử góp nhiều công sức cứu quốc và kiến quốc sau này.

 


1. Thật ra Cụ Nguyễn Sinh Sắc về Cao Lãnh cuối năm 1926, đầu năm 1927.

2. Theo http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=119 &Itemid=34.

3. Theo Thượng tọa Thích Huệ Thông, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương, “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng Phật giáo”, http:// www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/13482-pho-bang-nguyen-sinh-sac-trong-phong-trao-chan-hung-phat-giao.html

4. Theo: http://www.baonghean.vn/giao-duc-khoa-hoc/201301/ve-doi-cau-doi-cua-cu-nguyen-sinh-sac-tang-thay-giao-356102/

5. Theo Thượng tọa Thích Huệ Thông, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương, “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấnhưng Phật giáo”, http:// www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/13482-pho-bang-nguyen-sinh-sac-trong-phong-trao-chan-hung-phat-giao.html

6. Thực ra Cụ Nguyễn Sinh Sắc đẫ mất từ cuối năm 1929, song tư tưởng Phật học của Cụ Sắc có tác động lớn đến sư Khánh Hòa và Phong trào Chấn hưng Phật giáo sau này.

7. Theo Hòa Thượng Thích Trí Quảng, “Phát huy trí tuệ, thích nghi với hoàn cảnh để hành đạo tốt đẹp”, http://www.chuahuenghiem.net/bai-giang/phat-phap-va-doi-song/ phat-huy-tri-tue-thich-nghi-voi-hoan-canh-de-hanh-dao-tot-dep/

8. Thượng tọa Thích Huệ Thông, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương, “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấnhưng Phật giáo”, http://www. daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/13482-pho-bang-nguyen-sinh-sac-trong-phong-trao-chan-hung-phat-giao.html.

9. Trong tác phẩm “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.

10. Theo Thiện Chiếu, “Nước ta ngày nay cần phải chấn hưng Phật giáo” đăng trong “Phong trào chấn hưng Phật giáo” tập Tư liệu báo chí Phật giáo Việt Nam từ 1929- 1945, Nxb. Tôn giáo, trang 54; do Nguyễn Đại Đồng và TS Nguyễn Thị Minh sưu tầm và biên soạn, phát hành năm 2010.

11. Theo Thượng tọa Thích Huệ Thông, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương, “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấnhưng Phật giáo”, http:// www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/13482-pho-bang-nguyen-sinh-sac-trong-phong-trao-chan-hung-phat-giao.html.

12. Tuy nhiên, những hiện vật gắn với quá khứ của chùa không còn nhiều. Đồng chí Việt Hùng, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Minh Đức, thành viên ban bảo vệ di tích chùa Tuyên Linh cho biết: “Chúng tôi đang có kế hoạch xin xây nhà bảo tàng ở tại chùa. Trước tiên sẽ tìm vận động, sưu tầm những hiện vật gắn với chùa trước đây và tôn tạo lại những bút tích của sư cụ Lê Khánh Hòa và cụ Nguyễn Sinh Sắc để trưng bày ở bảo tàng. Bên cạnh đó, sẽ xây dựng hệ thống giao thông để tạo sự đi lại dễ dàng cho người dân đến tham quan chùa”. Chùa Tuyên Linh được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào năm 1994.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 69
    • Số lượt truy cập : 6131763