Thông tin

YẾU TỐ BẢN ĐỊA TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG VÀ

 TRONG CHIẾN LƯỢC NHÂN TÂM CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN

 

TRẦN ĐÌNH HẰNG*

 

1. Vấn đề nghiên cứu

Trên bản đồ khu vực Đông Nam Á và châu Á nói chung, có thể dễ dàng nhận thấy dạng hình thể chữ S đặc trưng của đất nước Việt Nam, như là một bao lơn ưỡn ngực ra biển Đông, tựa lưng vào Trường Sơn phía Tây. Từ cái nôi châu thổ Bắc bộ, người Việt đi về phía Nam như một sinh lộ độc đạo trên nền tảng truyền thống nông nghiệp lúa nước bền chặt. Không gian địa lý từ Hoành Sơn, gần như tương ứng với vĩ tuyến 180 Bắc, ra đến đảo Hải Nam, trong bối cảnh đó, đã tạo cho vùng biển châu thổ Bắc bộ trở thành một vịnh kín. Yếu tố biển, do đó, vô cùng mờ nhạt. Bước qua Hoành Sơn, người Việt với cảm quan châu thổ nội đồng từ miền Bắc, đã buộc phải có thế ứng xử thích ứng trước môi trường địa lý tự nhiên đầy khác biệt - SÔNG, BIỂN - cũng như nhân quần xã hội đầy lạ lẫm - PHI VIỆT, đặc biệt là những dấu ấn đậm nét trong thế ứng xử Việt có từ thời các chúa Nguyễn.

Với cách nhìn rộng hơn trong bối cảnh khu vực, hai xu hướng ảnh hưởng Hán hóa và Ấn Độ hóa, từ xa xưa, đã tác động chi phối mạnh mẽ đến lịch sử - văn hóa vùng đất miền Trung - Việt Nam. Miền Trung, do vậy, trở thành vùng đất có sứ mạng bản lề trong quá trình giao lưu ảnh hưởng từ sự tác động của hai nền văn minh rực rỡ Trung - Ấn. Trong dải đất có sứ mạng bản lề đó, chúng tôi cho rằng xứ Thuận Hóa chính là cái bản lề cốt lõi của cả bản lề rộng lớn, bởi, từ cội nguồn lịch sử, là nơi biên viễn - tiền tiêu suốt một thời kỳ dài của hai vương quốc đại diện: Đại Việt và Champa. Trên con đường độc đạo đi về phương Nam của người Việt lúa nước, xứ Thuận Hóa - được giới hạn bởi hai hằng số địa lý đặc trưng là Hoành Sơn và Hải Vân Sơn - thực sự đóng vai trò “yết hầu” mà nếu không hóa giải hết những vấn đề nan giải từ chính nơi đây, “sinh lộ” sẽ trở thành “tử lộ” do những cam go của vùng đất “Ô châu ác địa”.

Quá trình chuyển hóa từ “tử lộ” trở thành “sinh lộ” đã được các chúa Nguyễn thực hiện hết sức thành công, ngoài vấn đề kinh tế (thông thương - ngoại thương phát triển), cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề tư tưởng, mà trong đó, nổi bật nguyên tắc THIÊNG HÓA, trên cơ sở BẢN ĐỊA HÓA đời sống tín ngưỡng, là cơ sở cho quá trình tích hợp tín ngưỡng bản địa (thờ nữ thần) vào Phật giáo, những hóa thân của Bà Mẹ Xứ Sở trở thành Phật Bà, dưới nhiều lớp áo khác nhau, như Bà Trời Áo Đỏ để khai sinh Thiên Mụ tự - nền tảng tư tưởng Phật giáo xứ Đàng Trong. Chúng tôi đã từng đề cập đến một trong những khía cạnh quan trọng của vấn đề này, là ở mối quan hệ biện chứng giữa ÔNG THÀNH HOÀNG trong di sản văn hóa Việt (của Ta) và BÀ MẸ XỨ SỞ trong di sản văn hóa phi Việt (của Người) thông qua nguyên tắc thiêng hóa, cá thể hóa [1], nhờ vào hai phương thức đặc biệt quan trọng:

(1). “Việt hóa” những yếu tố “phi Việt”: tiếp cận rồi từng bước tiếp nhận những sự vật hiện tượng văn hóa tín ngưỡng xa lạ của các cộng đồng tộc người bản địa tiền trú - “Của Người”, dần dần khoác lên bên trên những lớp áo văn hóa Việt, biến thành “Của Ta”.

(2). Từng bước khẳng định dấu ấn “Việt” trên vùng đất mới, tiêu biểu là định hình nên hệ thống thần linh biển có yếu tố gốc Việt (như Phi vận tướng quân), hệ nhân thần mới trong thần điện làng Việt miền Trung: Các vị thần Khai canh Khai khẩn…

Trên vùng đất mới Ô châu ác địa, tử lộ trở thành sinh lộ, là nhờ khả năng ứng phó tài tình, hợp lý trong chiến lược nhân tâm thời chúa Nguyễn. Bài viết góp phần làm rõ vấn đề này trên cơ sở khảo sát, lấy dẫn chứng một số trường hợp cụ thể, từ vùng Ái Tử buổi đầu, cho đến tận dải đất Phú Yên, từ những vị thần bản địa “của Người - phi Việt” cho đến tương quan tác động ảnh hưởng đối với các vị thần “của Ta - Việt”.

2. Một số biểu hiện cụ thể

2.1. Từ Cô Gái Áo Xanh ở bờ sông Ái Tử đến Bà Trời Áo Đỏ bên bờ sông Hương: giải quyết từ nhu cầu “quân tình” buổi đầu cho đến “dân tình”, chiến lược nhân tâm cho một vùng đất mới - chính thể mới Đàng Trong

Trên bước đường người Việt về Nam, những va chạm bằng vũ lực hay những cú sốc văn hóa với các cộng đồng cư dân bản địa là điều không tránh khỏi. Điểm đặc biệt chú ý ở đây là nhiều chứng cớ lịch sử cho thấy một số phương thức chuyển hóa, hóa giải hòa bình mọi nguy cơ nảy sinh xung đột là xu hướng chủ đạo, tỏ ra rất hiệu quả.

Trong Lời tựa cho Dẫn nhập nghiên cứu Annam và Champa(1934), Victor Goloubew đã mô tả miền Trung là một dải đất hẹp, nối liền hai châu thổ Bắc bộ và Nam bộ: “Dải đất hẹp này hình như cứ xô ra biển, có vô số dòng sông rạch ngang dải đất này..., là xứ có nhiều bãi cát trắng và nhiều vách đá tầng bậc, đây là xứ sở của truyện cổ tích và vô số vị thần linh huyền bí...” [2], và trong số các vị thần linh huyền bí đó, đáng chú ý trước tiên chính là các vị nữ thần. Do vậy, người Việt đã tích hợp, chuyển hóa một cách phù hợp, tài tình hình ảnh Ông - Bà, xóa nhòa lằn ranh bất đồng có nguy cơ gây sốc rất lớn khi dung hợp hai yếu tố chính yếu là Bổn thổ của Bà Mẹ Xứ Sở và Thành hoàng của Ông Thành hoàng, làm nên Bổn thổ Thành hoàng đầy phiếm xưng. Một chất xúc tác và cũng là phông nền căn bản trong bối cảnh đó, chính là hình ảnh của các vị nữ thần phương Nam, đứng đầu là Bà Mẹ Xứ Sở - Poh Iư Nagar, tiếp đến là các vị nữ thần địa phương, hay cũng có thể chính là hóa thân của Bà Mẹ Xứ Sở trên từng địa bàn mỗi một ngôi làng cụ thể.

Từ một nền tảng Nho giáo chính thống, xuất phát điểm của vấn đề ra đi tìm đất đứng chân của chúa tôi Nguyễn Hoàng dễ dàng bị phản biện là “cát cứ”, “tạo phản” bởi quan niệm trung quân ái quốc truyền thống Nho giáo. Từ việc thoát hiểm cho đến lúc tạo lập nên vùng đất mới Đàng Trong, từng bước đối trọng với Đàng Ngoài, vấn đề tiên quyết của họ Nguyễn là phải từng bước khẳng định được tính chất “hợp lòng Người, thuận ý Trời”, làm tinh thần chủ đạo trong chiến lược nhân tâm của một chính thể mới.

Rõ ràng họ Nguyễn đã có nhiều nỗ lực vượt bậc để thoát hiểm từ miền Bắc, thậm chí phải luôn “tự lắng xuống, kín đáo giữ mình” [3], đến nỗi còn giả điên [4] để rồi từ sự bắc cầu thông qua ảnh hưởng rộng lớn, mạnh mẽ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, cơ duyên vào Nam của ông được bén rễ: “… Khả năng Nguễn Hoàng là nhân tố quyết định và ông đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà hiền triết của quốc gia xức dầu thánh phong làm người trị vì miền Nam..." [5]. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là nếu như sự chỉ dẫn qua phương thức sấm truyền của Trạng Trình, theo ghi nhận của Trịnh - Nguyễn diễn chí, vào năm Canh Tý (1600), thì có nghĩa là trước khi diện kiến trạng Trình, chúa tôi Nguyễn Hoàng đã vào Ái Tử những 42 năm rồi. Ở đây, vai trò của một vị quân sư ẩn mình sau trướng, gắn bó suốt bên cạnh chúa Tiên từ năm ông 13 tuổi, chính là vị quốc cữu tài năng lỗi lạc Nguyễn Ư Dĩ/Kỷ/Tỵ, nay vẫn còn miếu thờ ở làng Trà Bát, tỉnh Quảng Trị [6].

Đã vậy, vùng đất đứng chân buổi đầu lại chứa đựng vô vàn những cam go, của một vùng “ác địa” (sơn lam chướng khí và thế lực phe đảng nhà Mạc) nên Trịnh Kiểm cũng muốn nhân đó, lợi dụng để diệt trừ [7].

Buổi đầu trên vùng đất mới, người Việt, về cơ bản, vẫn là thiểu số. Từ đầu thế kỷ XV, tư liệu Thủy thiên cho thấy rõ điều đó qua nỗi lo của ông Phạm Quán: “Ở đây người Chiêm Thành đông, người mình ít, sợ sau này sinh hạ con cháu, người Sở kẻ Tề nhuốm theo phong tục họ... Cứ như chỗ ngài đang ở, người mình nhiều, người Chiêm Thành ít, ngày sau họ sẽ hóa theo ta, có nên thuần phong mỹ tục. Vậy ta xin được đến đây ở nhập với ông, ông có đồng ý không?” [8].

Cũng với tinh thần tương tự, sử sách còn ghi nhận tháng 10 năm Giáp Dần (1374), triều đình đã có chiếu cấm quân dân không được mặc áo, chải đầu theo người phương Bắc và bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm, Lào [9]. Năm 1499, nhà Lê ban hành chiếu chỉ cấm người Việt kết hôn với phụ nữ bản địa: “Tháng 8, ngày 9 [Kỷ Mùi], có chiếu rằng: Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để cho phong tục được thuần hậu” [10].

Trong bối cảnh tân dân trên vùng đất mới như vậy, những va chạm về văn hóa và tín ngưỡng phong tục rất đáng được lưu tâm. Do đó, từ vùng đất Ái Tử hoàn toàn lạ lẫm, họ Nguyễn phải hành xử vô cùng thận trọng. Ngay lúc mới đến, chúa Tiên đã rất bối rối trước việc cư dân bản địa mang 7 chum nước vẩy mừng tân trấn thủ; nhưng tất cả đã được hóa giải bởi lời giải thích đầy ý nghĩa của vị Quốc cữu: "Đấy là phúc Trời cho đó. Việc trời tất có hình tượng. Nay chúa thượng mới đến mà dân đem NƯỚC dâng lên, có lẽ là điềm được NƯỚC đó chăng" [11].

Quá trình “được nước” quả vô cùng cam go, đến mức sinh tử. Trên một vùng đất mới đầy lạ lẫm, đặc biệt là với sự hiện diện một cách mạnh mẽ, rộng khắp của tín ngưỡng thờ nữ thần bản địa dưới ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, không chỉ hoàn toàn chúa Tiên "có xu hướng thu hút bởi các nữ thần" [12] mà ngược lại, tài năng của vị chân chúa đã thấy được ở đó sức mạnh cố kết nhân tâm thiết yếu cho nghiệp bá mới, theo nguyên tắc "thiêng hóa". Từ đây, trên nền tảng tín ngưỡng bản địa huyền hoặc, linh thiêng, ông đã kế thừa sức mạnh linh thiêng ấy, nhưng lại được cụ thể hóa dưới dạng truyền thuyết mang đậm chất Việt, nhằm từng bước hỗ trợ đắc lực cho nghiệp bá Nam hà, từ sứ mạng trấn an quân tình buổi đầu đậm tính sách lược, cho đến sứ mạng tư tưởng chiến lược cho cả vùng đất mới, thông qua Cô Gái Áo Xanh (Ái Tử, Quảng Trị) và Bà Trời Áo Đỏ (Thiên Mụ, Huế) [13].

Sinh lộ hay tử lộ trong nghiệp bá của vị tân trấn thủ đầy gian nan, bắt đầu từ mốc son Mậu Ngọ (1558), tại bãi cát Ái Tử, bởi di sản văn hóa bản địa cũng như tàn dư của các thế lực thù địch khác,… Trong hành trình khó khăn đó, đã trải qua hơn chục năm, chúa tôi họ Nguyễn phải rất cần một chiến thắng quân sự đầu tiên để trấn an - khích lệ quân tình, dù phải dùng “hạ sách” mỹ nhân kế. Tuy nhiên, thực tế trần trụi đó đã được bao phủ, khoác lên bên trên một lớp áo truyền thuyết u linh, huyền diệu, nhờ hình thức “báo mộng” của vị thần sông Ái Tử: Tín ngưỡng bản địa thờ nữ thần, thủy thần được tích hợp thành Cô Gái Áo Xanh, qua tiếng kêu của loài chim Qua Qua/Trão Trão. Đây là vị thần chính thống đầu tiên của Nam hà, bởi ngay sau đó, thần sông Ái Tử đã được phong làm “Trão Trão Linh Thu Phổ Tế Tương Hựu phu nhân, và cho lập miếu thờ"  [14].

Như vậy là phải mất đến 14 năm kể từ ngày đến Ái Tử (1558 - 1572), chúa Tiên mới có trận thắng quân sự đầu tiên và phải mất gần 78 năm sau, chúa Nguyễn mới có sự thận trọng dịch chuyển thủ phủ về nam: Kim Long (1636). Điều đáng nói là, chỉ với 65km đó, chúa Tiên cũng không dám vượt qua nếu không có đợt “kinh dinh” năm Tân Sửu (1601). Truyền thuyết Bà Trời Áo Đỏ - Thiên Mụ ra đời, với sứ mạng tạo dựng chiến lược nhân tâm, trong vai trò xác định Phật giáo làm hệ tư tưởng chính thống xứ Đàng Trong.

Nếu như thần sông Ái Tử phò trợ thắng trận với chim Qua Qua báo mộng, thì truyền thuyết Bà Trời Áo Đỏ là thông điệp loan báo xuất hiện chân chúa, tái lập Thiên Mụ tự với sứ mạng tư tưởng của Phật giáo xứ Đàng Trong [15].

Từ đây, có thể nhận thấy tài chính trị xuất chúng của chúa Tiên kịp thời nắm bắt, khai thác mọi vấn đề, sự kiện, hướng vào mục tiêu nhân tâm. Chúng tôi từng nhấn mạnh khía cạnh này với những biểu hiện rất đặc biệt khi cho rằng cộng đồng làng xã Việt buổi đầu trên vùng đất mới và chính thể mới rất năng động trong quá trình chuyển hóa BÀ MẸ XỨ SỞ trở thành BÀ THIÊN MỤ một cách hợp lý, hiệu quả, không hề gây sốc hay khoảng trống tâm linh, tạo nên một nguy cơ gây xung đột nào [16].

Một ví dụ điển hình cho quá trình này, ở cả cấp độ làng xã cũng như triều đình phong kiến, là trường hợp điện Huệ Nam thờ nữ thần Thiên Y A Na ở Huế. Câu hỏi đặt ra là trong vùng ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, tại sao người Việt chỉ Việt hóa ở mức cao nhất hình tượng Bà Mẹ Xứ Sở? Có lẽ, suy cho cùng, cũng chính là ở điểm gặp gỡ gần gũi đối với người Việt lúa nước trong vai trò là vị thần bảo trợ cho mùa màng, cỏ cây, đem lại mưa thuận gió hòa..., phù hợp với người nông dân trước Bà Mẹ Lúa. Trước khi người Việt đến, nơi đây đã có một ngôi đền Y Na linh nghiệm, linh nghiệm đối với cả người Việt mới đến và về sau, xuất hiện một địa danh là Hải Cát và vẫn rất linh nghiệm. Nhà Nguyễn đã từng bước thừa nhận ngôi đền Y Na một cách có hệ thống, nên hoàn toàn không tạo ra khoảng trống hay xung đột tâm linh trong đời sống cộng đồng. Từ chỗ nhìn nhận “thần là đàn bà”, ngôi đền đã mang thêm chức năng đảo vũ cho người Việt lúa nước. Bà Mẹ Xứ Sở (Champa) có nét tương đồng với Bà Mẹ Lúa (Việt). Yếu tố Thần bản địa được tôn trọng một cách hợp lý nhất, đến lượt nó, tác động trở lại triều đình. Diễn trình này được hình thành, bổ sung dần từ một ngôi đền thờ thần, trở thành một ngôi điện thờ Mẫu mà không gặp phải một trở ngại nào. Đặc biệt với người Việt, ngôi đền Y Na là sự hội tụ đầy đủ nhất cả ba chức năng thờ tự: Thiên thần, Thủy thần Sơn thần.

Chính vì vậy mà phải đến thời Nguyễn mạt, quá trình Việt hóa đó mới được hoàn thiện và có thể nói vua Đồng Khánh là “vị vua đầu tiên công nhận tín ngưỡng dân gian của các ông đồng bà cốt Việt Nam” bởi trước đó, vấn đề này bị đặt ngoài vòng pháp luật [17].

Trong 78 năm một hành trình gian nan (Ái Tử - Kim Long, 1558 - 1636), điểm đặc biệt cần chú ý chính là quãng thời gian 29 năm gắn liền hai vị nữ thần, ở hai dòng sông Ái Tử và Sông Hương (1572 - 1601). Nhờ đó mà cơ bản, dấu ấn bản sắc Việt đã được tạo dựng nền móng một cách căn bản cho xứ Đàng Trong về sau, cụ thể là văn hóa miền Trung Việt Nam, cho đến hiện nay.

2.2. Vài biểu hiện rộng khắp tận làng xã

Quá trình Hán hóa (tiếp thu và chống Hán hóa), Ấn Độ hóa (tiếp thu và chống Ấn Độ hóa) suốt chiều dài lịch sử đã góp phần tạo nên cốt cách - bản sắc văn hóa cũng như bản lĩnh Việt Nam, đặc biệt là vấn đề Hán hóa và chống Hán hóa. Dấu ấn của vấn đề làm sao để thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng Trung Hoa và khác Trung Hoa, đậm nét nhất trong lịch sử Việt Nam, chính là dưới thời chúa Nguyễn.

Từ truyền thống nông nghiệp lúa nước bền chặt ở cái nôi châu thổ Bắc bộ, người Việt đã xây dựng thành công một biểu tượng quyền uy, cố kết cộng đồng chặt chẽ, là ÔNG THÀNH HOÀNG, gắn liền với quyền - khát vọng chiếm hữu - sở hữu ruộng đất cho việc canh tác nông nghiệp. Yếu tố biển - thông thương, do vậy, nhạt hơn hẳn so với vấn đề này ở vùng đất phía nam Hoành Sơn, nơi môi trường gắn liền với BIỂN ở phía đông và NÚI RỪNG thênh thang, giàu tài nguyên ở phía tây, và cũng được các cộng đồng cư dân bản địa tiền Việt - phi Việt xây dựng nên một biểu tượng tương tự nhưng mang nhiều nét dị biệt: BÀ MẸ XỨ SỞ (hiện diện bao gồm cả ở phạm vi LÃNH THỔ lẫn LÃNH HẢI, trên phương diện NÔNG NGHIỆP lẫn PHI NÔNG NGHIỆP). Cuộc hôn phối lịch sử giữa Ông Thành Hoàng và Bà Mẹ Xứ Sở, dấu ấn đậm nét từ thời chúa Nguyễn, đã góp phần quan trọng trong việc định hình nên diện mạo của văn hóa miền Trung, trở thành chất xúc tác có khả năng giảm thiểu mọi nguy cơ xung đột có thể xảy ra, đem lại nghị lực phi thường cho lớp lớp tân dân, dần tạo nên thế ứng xử đặc trưng của người Việt miền Trung.

Các vị nữ thần phi Việt hiện diện hầu khắp tận làng xã, buộc cộng đồng Việt di cư phải có phương cách tiếp cận phù hợp, từ “kính nhi viễn chi”, dần đến “kính như tại”. Những điểm thiêng, nơi trú ngụ của các Yang, trước tiên, thường được tiếp cận, cụ thể hóa thành những điểm thờ Bà: Bà Dàng, có khi lại được chuyển hóa theo cấp độ Hán Việt cao hơn thành Bà Dương, gắn liền với những thạch tượng, trở thành Bà Thai Dương, chuyển hóa trọn vẹn thành Thai Dương Phu nhân theo đúng phẩm trật, điển lệ phong kiến. Xuất lộ đầy bí hiểm từ mặt đất, hoặc từ những lùm bụi rậm rạp, danh từ/tính từ Lồi cũng thường được dùng để chỉ những đối tượng thờ phụng vốn xa lạ với người Việt; hoặc định danh Hời theo lối chỉ dẫn những đối tượng “phi Việt” phương Nam. Điểm đặc biệt cần chú ý ở đây chính là phương thức tiếp cận rất đặc thù của từng cộng đồng làng xã, để rồi có sự định danh rất phong phú và đa dạng nhưng chung qui, đa phần đều là những hiện thân của chính Bà Mẹ Xứ Sở.

Nguyên ủy, miếu Quảng Tế ở làng Phước Tích (Thừa Thiên Huế) thờ Thiên Y A Na, nhưng người Việt như cố quên lớp áo bản địa tiền Việt để khoác lên bên trên lớp áo Việt khi dùng mỹ tự Quảng Tế (ân đức ban phát rộng rãi) trong tước vị của Bà được triều đình phong kiến sắc phong để định danh ngôi cổ tự này [18].

L. Cadière đã có chuyên khảo về những công trình và kỷ vật Chăm rất công phu ở nhiều làng xã vùng Huế, từ vấn đề địa danh học, quá trình định cư của các dòng họ khai canh sát tại di tích Chăm, thuận lợi cho việc trồng lúa nước v.v... [19]. Người Việt nhanh chóng tiếp cận rồi Việt hóa những địa danh, hiện tượng bằng các giai thoại, truyền thuyết mới, chỉ giữ lại chi tiết trọng tâm , có khi dựng chồng lên trên, hoặc bên cạnh, một miếu đền mới v.v... Trên lưu vực sông Ô Lâu, đó là hai miếu Bà Lồi ở Mỹ Xuyên, chùa Lồi ở Trạch Phổ, đình làng Phò Trạch ở sát bên một phế tích Chăm cùng những Miễu Lồi, mả Chàm, mả Mọi; Cồn Dàng ở Phù Nông, Cổ Tháp v.v...

Bà Dàng cộng hưởng với yếu tố Đá Lồi/Hời là sức sống chính của Đền Thai Dương Phu nhân ở Thuận An nổi tiếng linh ứng, với tước hiệu Thai Dương Linh Thạch Đoan Thục Nhu Thuận Trinh Ý Từ Tế Ý Đức Cẩn Hạnh Phu Nhân. Tương tự là Kỳ Thạch Phu nhân ở Thanh Phước [20].

Vấn đề Việt hóa ở đây cũng cần được lưu tâm, cụ thể nhất là sự biến âm Zàng - Dương, điển hình với truyền tích và ngôi miếu Thai Dương Phu nhân ở Thuận An. Vẫn giữ tên gọi miếu Bà Giàng, nơi thờ một bệ tượng, gắn liền một Linga, nhưng ở làng Hưng Nhơn (Hải Hòa, Hải Lăng, Quảng Trị) được chuyển hóa thành truyền thuyết đậm chất Việt: chuyện một bà lão, thắng trong một vụ tranh kiện bằng cách thi bưng “trống đá”, nhờ đó mà mốc giới của làng được xác lập rộng hơn. Ghi nhớ công ơn này, làng xây dựng nên ngôi miếu và đưa Bà vào qui chế thờ tự sau khi mất. Về sau, truyền thuyết đó được thể hiện trên cơ sở phong tục hóa, qua lệ thành đinh: trai làng phải thi bưng trống đá để đánh dấu nghi lễ trưởng thành [21].

Tương tự, khi xem xét vấn đề ở địa bàn ven sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương… vùng Huế, chúng tôi cho rằng sông Thu Bồn là một thủy lộ huyết mạch cho lịch sử và văn hóa vùng xứ Quảng, và cả vùng nam Trung bộ rộng lớn. Điểm đặc biệt chú ý là dọc lưu vực sông Thu Bồn, hiện diện rõ nét hình ảnh Bà Mẹ Xứ Sở, nhưng dưới nhiều hiện thân, sắc thái khác nhau, mà về đại thể, nổi bật xuyên suốt theo trục đông - tây (tức biển - núi) là sự hiện diện của Bà Chúa Ngọc ở núi Chúa (ranh giới giữa huyện Quế Sơn và Duy Xuyên hiện nay) và Bô Bô đại vương trên Cù Lao Chàm phía cửa biển Đại Chiêm (Đại Chiêm hải khẩu).

Ở Quảng Nam, Nhất thống chí đề cập đến hai vị thần, một phía núi, một phía biển:

(1) Đảo Đại Chiêm: ngất ngưỡng giữa biển, gọi là đảo Ngoạ Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao, làm trấn sơn cho cửa biển Đại Chiêm. Có ba ngôi đền: đền Phục Ba tướng quân, đền Tứ Dương hầu, đền Bích Tiên; có thuyết nói là đền Cao Các Đại Vương, đền Phục Ba tướng quân, đền Bô Bô đại vương...

(2) Núi Ấn: Ở phía tây núi Tào Sơn chỗ giáp giới hai huyện Duy Xuyên và Quế Sơn, hình thế cao vót, đỉnh núi như hình cái ấn vuông sắc đỏ, nên gọi thế; lại có tên là núi Chúa vì trên núi có đền thờ bà Chúa Ngọc Tiên Nương. Tục truyền, chúa cỡi mây lên chầu thượng đế, mỗi khi trở về động thì trong động có ba tiếng như sấm vang [22].

Và dọc theo đôi bờ sông Sài Thị/Thu Bồn, là sự hiện diện đến mức mật tập của Bà Mẹ Xứ Sở và vô vàn những hóa thân của Bà. Minh họa cho vấn đề này trên địa bàn Quảng Nam, có thể thấy rất rõ điều đó: Bà Thu Bồn ở phường Rạnh (Quế Sơn), Bà Thu Bồn ở làng Thu Bồn (Duy Xuyên), Bà Chiêm Sơn, Bô Bô đại vương ở Cù Lao Chàm, thần Thạch Cảm Đương ở làng Thanh Quýt, Bà Diêm Phố ở Tam Kỳ, Bà Chúa Ngọc làng Phong Thử...  “Người ta thờ cúng nhiều vị nữ thần đến mức độ kỳ lạ... trong một tần số được nhấn mạnh với cái tên Bà Đá, Bà Lồi, Bà Ngọc, Bà Thái Dương”, thậm chí nhiều pho tượng, linh vật giống đực, vẫn được thờ cúng dưới danh xưng Bà Lồi [23]. Pho tượng Bà Chiêm Sơn hiện nay đã được Việt hóa rất nhiều, chí ít cũng nhờ khả năng sơn phết để biến thành một Phật Bà Quan Âm nhưng xung quanh lại được bảo bọc, nâng đỡ bởi bảy rắn thần Naga. Tuy nhiên, điểm đặc biệt cần chú ý ở đây là tước vị của Bà vẫn là Bô Bô Kỳ Thạch Phu nhân.

Kết quả khảo sát của Hội Folklore Đông Dương về đời sống văn hóa làng xã Quảng Nam những năm 1940-1944 cũng cho biết nhiều thông tin quan trọng: bà Thiên Y được thờ ở làng Văn Quật, làng Phú Xuân (Duy Xuyên), vị Dương Phu nhân ở làng Lang Châu, Bà Giàng (Quế Trạch), Bà Giàng Phi (hai làng Mông Lãnh, Dưỡng Mong)... [24].

2.3. Sự muộn mằn của quá trình khẳng định yếu tố gốc Việt trong đời sống tín ngưỡng miền Trung thời chúa Nguyễn

Rõ ràng là những yếu tố văn hóa bản địa tồn tại và có ảnh hưởng vô cùng sâu đậm, rộng khắp. Đồng thời với quá trình “Việt hóa” những yếu tố “phi Việt”, quá trình khẳng định những yếu tố “Việt” vẫn luôn được đặt ra, dù muộn mằn, và bước đầu, có thể còn mong manh.

Trong bức tranh chung đó, có thể nhận thấy sự hiện diện của nhiều vị thần gốc gác miền Bắc, gắn liền với những mốc son đi về phương Nam của người Việt, như Tứ Vị Thánh Nương, Lê Thánh Tông, Minh Uy Phương Đường Phu Nhân (con gái vua Lê Thánh Tông), Phi Vận Tướng Quân, Trấn Quận công Bùi Tá Hán, Phù Quận công Lương Văn Chánh, Bà Tơ, Bà Phường Chào, các vị thần Tiền hiền, Khai canh, Khai khẩn, v.v…

Vượt qua Hải Vân sơn, từ thời chúa Nguyễn, cộng đồng tân dân Việt đã định hình nên một số vị nhân thần “gốc Việt”, tiêu biểu như Trấn Quận công Bùi Tá Hán (Quảng Nam - Bình Định), Phù Quận công Lương Văn Chánh (Bình Định - Khánh Hòa). Tuy nhiên, kết quả khảo sát bước đầu của chúng tôi, qua thư tịch cũng như điền dã thực tế tại nhiều làng xã ở nam Trung bộ cho thấy dưới thời chúa Nguyễn, từ sự chi phối mạnh mẽ của những vị thần bản địa mà các vị nhân thần gốc Việt trên dải đất này lại có ảnh hưởng khiêm tốn, thể hiện thái độ khiêm tốn một cách khôn ngoan, hiệu quả của lớp lớp tân dân, của chính sách văn hóa tín ngưỡng thời chúa Nguyễn. Các vị nhân thần Trấn Quận công, Lương Quận công, phải đến thời Minh Mạng, mới được sắc phong hàm Thượng đẳng thần [25].

Dân gian Quảng Nam đến nay vẫn lưu truyền phổ biến câu ca:

Bô Bô nói với Phường Chào

Bên em, bên chị, bên nào thiêng hơn?

Đây chính là thái độ có tính nhị nguyên, hay lưỡng hợp trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của cư dân Việt miền Trung, vừa muốn tôn vinh những giá trị Việt đặc thù nhưng vẫn sợ và cảm thấy bất an, bất kính với những giá trị văn hóa tâm linh bản địa phi Việt, tiền Việt. Cho nên Bà Phường Chào/Bà Phiếm Ái/Bà Chợ Được…, cho dù có thiêng liêng đến mức độ nào, Bà cũng chỉ dám đứng một vị trí khiêm tốn so với Bà Mẹ Xứ Sở Poh Iư Nagar có “tuổi thọ” và tầm ảnh hưởng sâu rộng, Chị - Thượng đẳng tối linh thần; hoặc cũng có thể đây chính là thông điệp mà các cộng đồng cư dân bản địa “Việt hóa” muốn gửi gắm. Sắc phong của Bà chỉ ở bậc Trung đẳng thần, bà hoặc tín hữu của bà, tương truyền, từng mua cúng cho bà Thu Bồn 01,7 mẫu ruộng mà hiện nay ở Thu Bồn (Duy Tân, Duy Xuyên, Quảng Nam), vẫn tồn tại xứ ruộng Bà Phường Chào.

Qua Hải Vân sơn, người Việt nhanh chóng chiếm lĩnh vùng đất Nam - Ngãi - Bình - Phú (Chúa Tiên vân du Hải Vân - xứ Quảng Nam năm Tân Sửu 1601 - Thành lập phủ Phú Yên năm Tân Hợi - 1611), định hình nên hai vị nhân thần gốc Việt có tầm ảnh hưởng lớn là Trấn Quận công và Phù Quận công như đã đề cập. Tạm thời bỏ qua vùng đất Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận - thủ phủ của vương quốc Champa bản địa, nghèo tiềm năng nông nghiệp, người Việt lại nhanh chóng tiến về chiếm lĩnh vựa lúa Nam bộ phì nhiêu và ở đây, lại tiếp tục định hình nên một vị nhân thần Việt mới, có tầm ảnh hưởng bao quát hầu khắp Nam kỳ lục tỉnh: Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh.

3. Vấn đề đặt ra

Những vị tướng tài ba, công lao hiển hách thời chúa Nguyễn, sau khi mất lại hiển linh trở thành những nhân thần Việt, được nhân dân tôn kính phụng thờ, như Trấn Quận công Bùi Tá Hán, Phù Quận công Lương Văn Chánh… Tuy nhiên, với nguyên tắc tôn trọng văn hóa - tín ngưỡng bản địa tiên quyết, các vị nhân thần Việt này, thời chúa Nguyễn, vẫn hiện hữu rất khiêm tốn bởi sự bao trùm, tỏa bóng vĩ đại, sâu rộng của Bà Mẹ Xứ Sở.

Vẫn là Bà Mẹ Xứ Sở nhưng đã được mang lớp áo Việt, trở thành Bà Trời Áo Đỏ đậm tính chất Phật giáo. Trong bối cảnh đó, nhân thần Lương Quận công, từ thời chúa Nguyễn, không thể, và nói chính xác hơn, không dám, là thành hoàng - hay vị thần đứng đầu của vùng đất Phú Yên được. Vua Đồng Khánh từng phong bách thần, vẫn là EM; bà Phường Chào thuần Việt, vẫn là EM trước Bà Mẹ Xứ Sở… thì không lý gì ngài Lương Quận công lại dám “hỗn” với CHỊ - MẸ Thiên Y A Na được.

Trong đợt khảo sát thực tế tại địa bàn nhiều làng xã Phú Yên tháng 3/2011 và tháng 7/2011, sơ bộ kết quả cho thấy có sự phân định khá rõ thứ hạng các vị thần linh được thờ từ ranh giới Bình Định và Phú Yên. Trong đó, nổi bật nhất là ngôi vị đứng đầu của Tứ Vị Thánh Nương trong thần vị, văn tế của làng xã vùng Bình Định trở ra Bắc và từ Phú Yên trở vào, lại là Bà Mẹ Xứ Sở Thiên Y A Na.

Việt hóa đã mang lại sức sống cho cộng đồng cư dân Việt trong thân phận tân dân, trở thành chủ thể văn hóa trên dải đất miền Trung suốt chiều dài lịch sử. Điều đặc biệt là Việt hóa ở đây, đương nhiên bao hàm cả nguyên tắc tôn trọng hệ giá trị bản địa phi Việt, dần dần từng bước Việt hóa, biến Của Người trở thành Của Ta.

Suốt quá trình gian nan, đằng đẵng đó, từ thời chúa Nguyễn, vấn đề nhân tâm trở thành tối thượng, xác định và kịp thời giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, những khoảng trống tâm linh thông qua phương thức hóa giải, bù đắp kịp thời, một cách hiệu quả mà không hề tạo nên căng thẳng hay mầm xung đột nào. Đó là bài học lịch sử sâu sắc nhưng đến nay, vẫn đậm tính thời sự.



* Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, [email protected].

[1] Trần Đình Hằng, Hình ảnh Bà Mẹ Xứ Sở và nguyên tắc thiêng hóa, cá thể hóa trong đời sống lễ hội làng Việt miền Trung, Tham luận tại HTQT Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại: trường hợp hội Gióng, Viện VHNTVN, H.: 19-20/4/2010.

[2] Claeys, Jean Yves., “Hành trình vào sự nghiên cứu nước An-Nam và nước Chămpa”, trong Những người bạn Cố đô Huế (B.A.V.H), tập XXI (1934), NXB. Thuận Hóa, Huế, 2007, tr. 9.

[3] Khâm định Việt sử thông giám cương mục [Cương mục], tổ phiên dịch Viện Sử học, NXB. Giáo dục, H, 1998, tr. 645.

[4] Nguyễn Khoa Chiêm, Việt Nam khai quốc chí truyện  (Ngô Ðức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch chú và giới thiệu), NXB. Hội Nhà văn, H, 1994, tr. 26-27.

[5] Taylor. Keith W., "Nguyễn Hoàng và bước mở đầu cuộc Nam tiến của người Việt", trong Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử Việt Nam, NXB. Trẻ - Nguyệt san Xưa & Nay, 2001, tr. 161 - 184. Trong nguyên bản Taylor K. W.  “Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập (Ithaca, Cornell University Press, 1993), tr. 97.

[6] Trần Đình Hằng, “Từ Cô Gái Áo Xanh ở Ái Tử (Quảng Trị) đến Bà Trời Áo Đỏ ở Thiên Mụ (Huế), Sinh lộ tư tưởng của vùng đất mới Nam hà”, Kỷ yếu HTKH Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Thanh Hóa, 18-19/10/2008, NXB. Thế giới, H, 2008, tr. 524-532.

[7] Thuận Hóa là đất cũ nhà Lê nhưng “bè đảng nhà Mạc phần nhiều ra vào ẩn hiện ở đó, nhà Lê chưa rỗi kinh lý được. Gia Dũ bèn nhờ Trưởng công chúa Ngọc Bảo cầu xin cho vào trấn giữ đất đó. Trịnh Kiểm cho rằng đó là chỗ đất hiểm trở xa khơi, bèn muốn lợi dụng, nên cũng ưng thuận”.

Tờ biểu có nói: “Thuận Hóa là nơi có hình thế đẹp. Để làm nên sự nghiệp lớn, bản triều lúc mới khai quốc, phải nhờ vào sự đóng góp quân lính và tiền tài của Thuận Hóa. Có điều là Thuận Hóa bị giặc Mạc chiếm cứ đã lâu, lòng người hãy còn phản trắc, phần nhiều vượt biển đi theo họ Mạc, hoặc nhân dịp đưa giặc đến quấy, ở phía sau chúng ta. Đó là điều rất đáng lo ngại, Vậy nếu không được tay lương tướng vào đấy trấn giữ vỗ về thì không xong. Đoan Quận công là con nhà tướng, có tài năng và mưu lược, nay nên ra lệnh cho hắn vào trấn áp đất ấy, gây thế ỷ dốc với Trấn quận công Bùi Tá Hán ở Quảng Nam, ngõ hầu không có cái lo phải đoái hoài đến miền Nam. Nhà vua nghe theo”, “công việc trong cõi thảy đều cho phép được tùy tiện xử trí, hằng năm chỉ thu lễ công và phú thuế mà thôi” (Cương mục, Tlđd, tr. 645).

[8] Bản Thủy thiên khởi viết năm Thuận Thiên 2 (1429) bởi vị thủy tổ Bùi Trành, qua sáu lần sao lục, bản gần đây thời Tự Đức, Khải Định. Tài liệu hiện lưu giữ tại nhà thờ họ Bùi làng Câu Nhi (Hải Lăng, Quảng Trị). Chúng tôi sử dụng bản dịch của Bùi Hoành, không đề năm.

[9] Toàn thư, Tlđd, t. II, tr. 158.

[10] Toàn thư, bản dịch Viện KHXHVN, NXB. KHXH, H, 1998, t. III, tr. 17.

[11] Ðại Nam liệt truyện, Tiền biên, NXB. Thuận Hóa, Huế, tr. 83.

[12] Tạ Chí Đại Trường, Thần, Người và Đất Việt, NXB. VHTT, H, 2006, tr. 210.

[13] Trần Đình Hằng,  “Từ Cô Gái Áo Xanh…”, Tlđd.

[14] Đại Nam thực lục, tập I, bản dịch Viện Sử học, NXB. Giáo dục, H, 2002, tr.30.

Sử sách ghi nhận sự kiện năm 1572, tướng Mạc là Lập Bạo “… đem quân vào lấn, chúa thượng thân đi đánh, đóng quân ở bên sông Ái Tử, nghe có tiếng oa oa, chúa thượng lấy làm lạ, đứng dậy nhìn, thì chỉ thấy làn sóng ào ào mà thôi, nhân lẩm nhẩm khấn rằng: Thần sông có thiêng, nên giúp ta đánh tan quân giặc. Đêm ấy, mộng thấy một người đàn bà, xin dùng mĩ kế. Bèn sai nàng hầu là Ngô Thị đi dụ, giả vờ mời Lập Bạo đến hội thề. Chúa nhân đặt phục binh bắt giết Lập Bạo. Sau khi xong việc, bèn lập đền thờ thần” (Ðại Nam nhất thống chí, T. 1, NXB. Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 197).

Sự linh ứng đó tiếp tục được bồi đắp về sau. Từ năm Dương Đức thứ 2 (1673), đến năm Tự Đức thứ 3 (1850), đã có đến hơn 10 đạo sắc văn, “xưa nay dân cầu tạnh cầu mưa đều đến lễ ở miếu này, phần nhiều thấy ứng nghiệm”.

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ngự giá Bắc tuần, cho khắc bài thơ ngự chế:

Vãn phiếm khinh chu quá bích phù  (Duyềnh xanh thuyền nhẹ lướt như bay

Giang sơn cảm tích việt mao lâm     Trấn thủ vua ta đến đất này

Thần công đế tạo thiên thu tại         Vun đắp công thần muôn thu vững

Thánh vũ chiêu thuỳ vạn cổ khâm    Soi ngời ơn thánh vạn thuở dày

Trợ thuận thanh thanh thu lãng dị    Giúp chính bờ vang chim thứu hót

Hiệu linh trận trận tặc thuyền trầm.  Trợ thiêng thuyền giặc đắp sông đầy

Hà can miếu mạo truyền hương hoả  Sông khô miếu mạo luôn hương khói

Phong động ba minh trợ quốc tâm.    Sóng gào gió động giúp nước này)

(Ðồng Khánh địa dư chí [Ngô Đức Thọ dịch], NXB. Thế giới, H, 2003, tr. 1387).

[15] “Bấy giờ chúa dạo xem hình thế núi sông, thấy trên đồng bằng xã Hà Khê (thuộc huyện Hương Trà), giữa đồng bằng nổi lên một gò cao, như hình đầu rồng quay lại, phía trước nhìn ra sông lớn, phía sau có hồ rộng, cảnh trí rất đẹp. Nhân thế hỏi chuyện người địa phương, họ đều nói rằng gò này rất thiêng, tục truyền rằng: Xưa có người đêm thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh gò nói rằng:'Sẽ có vị chân chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, cho bền long mạch. Nói xong bà già biến mất. Bấy giờ nhân đấy mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho nơi ấy có linh khí, mới dựng chùa, gọi là chùa Thiên Mụ” (Đại Nam thực lục, tập I, NXB. Giáo dục, H, 2002, tr. 35).

[16] Poh Inư Nagar (BÀ MẸ XỨ SỞ) [  Thiên Y A Na (giải thích ý nghĩa theo từ Hán Việt) ð Bà Mẹ Trời Đất/Xứ Sở (giải thích theo lối chiết tự) ð Thiên Mẫu (rút gọn) ð Thiên Mụ (sử dụng phương ngữ) (Trần Đình Hằng,  Hình ảnh Bà Mẹ Xứ Sở…, tlđd).

[17] Xin tham khảo:

- Trần Văn Toàn, “Le temple Huệ Nam à Huế: étude précédée d'une note sur la Sainte religion de l'Immortelle Céleste (Thiên Tiên Thánh Giáo) dans la région de Huế”, B.S.E.I: XLIV: N0 3 – 4, 1969, tr. 243 - 262.

- Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Phước Bảo Đàn, Trần Đình Hằng…, Hải Cát: Đất và Người, NXB. Thuận Hóa, Huế, 2006.

- Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, in Essays into Vietnamese Pasts, K.W.Taylor and John K. Whitmore, Editors, Ithaca (New York): Cornell University Press, 1995.

- Lê Đình Hùng, “Dấu ấn nữ thần trên bước đường Nam tiến của Tiên chúa Nguyễn Hoàng”, trong Hội Sử học Thừa Thiên Huế (2006), 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế [Kỷ yếu HTKH], Huế: tháng 5-2006.

- Trần Ðình Hằng, "Sự tác động qua lại giữa làng xã và nhà nước: nghiên cứu trường hợp Hải Cát" (Hương Thọ, Hương Trà, Thừa Thiên Huế), trong Viện NCVH (2007), Thông báo Văn hóa Dân gian, 2006, NXB. KHXH, H, tr. 93-103.

[18] Nguyễn Hữu Thông & Nhóm biên soạn, Từ Kẻ Độc đến Phước Tích: chân dung một ngôi làng cổ bên dòng Ô Lâu, NXB. Thuận Hóa, Huế, 2011,

[19] Cadière, L. , "Monuments et souvenirs chams du Quảng Trị et du Thừa Thiên", B.E.F.E.O, Tome V, N01 – 2, 1905, tr. 185 - 195.

[20] Ðại Nam nhất thống chí: Thừa Thiên phủ, tập Thượng (Tu Trai Nguyễn Tạo d.), Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục, S, 1961, tr. 79 - 81.

[21] Hoàng Thị Ái Hoa, “Trống đá Hưng Nhơn, miếu Bà Giàng và lệ thành đinh ở làng Hưng Nhơn (Hải Hòa, Hải Lăng, Quảng Trị), Thông tin Khoa học, Phân Viện NCVHTT tại Huế, số tháng 3-2005.

[22] Đại Nam nhất thống chí, T. 2, NXB. Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 349-350, 359.

[23] A. Salles, “Di tích Chàm trong văn hóa dân gian Annam tại Quảng Nam”, B.A.V.H, 1923: 201-229, Nxb.. Thuận Hóa, 2002, T. 10, tr. 221, 224.

[24] Xã chí Quảng Nam, Tài liệu lưu trữ tại Viện Hán Nôm, mã số AJ, từ 1 đến 24.

[25] - Lê Hồng Long, Vũ Sông Trà, Tư liệu thư tịch và di tích về nhân vật lịch sử Bùi Tá Hán (1496-1568), Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ngãi xuất bản, 1996..

- Trần Đình Hằng, “Dấu ấn Việt trên vùng đất mới Phú Yên: trường hợp lễ hội Phù Quận công Lương Văn Chánh”, tham luận tại Hội thảo khoa học quốc tế Di sản văn hóa Nam Trung Bộ với sự phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế,  Bộ VH-TT&DL - UBND tỉnh Phú Yên, 2/4/2011.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 48
    • Số lượt truy cập : 7051297