Đóng góp của Đức Phật đối với tôn giáo Ấn Độ và nhân loại
ĐÓNG GÓP CỦA ĐỨC PHẬT
ĐỐI VỚI TÔN GIÁO ẤN ĐỘ VÀ NHÂN LOẠI
HOÀNG THỊ THƠ*
Phật giáo ra đời, vẫn gọi là Phật giáo nguyên thủy, nhưng không phải theo nghĩa nguyên thủy của nhân loại, vì khi đó Ấn Độ đã có một nền tảng triết học và tôn giáo bề thế với lịch sử hơn 1.500 năm trước công nguyên và đã chuyển sang giai đoạn (trình độ) thứ ba, nghĩa là vượt qua các giai đoạn 1-Thần (huyền) thoại, 2-Thần quyền để đến giai đoạn 3-Nhân bản. Phật giáo đại diện cho giai đoạn thứ ba, chuyển từ tư duy thần quyềnsang tư duy nhân bản–giảm (giải) thần quyền, tức là bắt đầu giảm (giải) tính thiêng của thần thánh, và chuyển dần sang lấy con người làm trung tâm. Đóng góp tích cực và vĩ đại này của Phật giáo đã thực sự giải thiêng Bà la môn giáo và đem tôn giáo đến cho tất cả mọi người bình đẳng như nhau, buộc Bà la môn giáo phải đổi tên thành Hindu giáo (Tân Bà la môn giáo), tức là tôn giáo của tất cả người Hindu (người Ấn Độ) chứ không phải của riêng đẳng cấp Bà la môn.
Phật giáo ra đời cũng là thời kỳ Ấn Độ đã hình thành hệ thống 9 Dasanas, tức 9 trường phái triết học - tôn giáo. Chúng được phân thành 6 chính thống và 3 không chính thống theo nguyên tắc bảo vệ hay phản đối uy quyền thần thánh của Bà la môn giáo và kinh Veda(1) Như vậy, ngay từ đầu Phật giáo “nguyên thủy” không còn là “nguyên thủy” với tư cách sơ khởi của văn minh loài người. Tính lịch sử của thời đại được phản ánh rõ nét trong tinh thần nhân văn, bình đẳng, vô thần, tự giác, hướng nội của giáo lý Phật giáo.
Khi lập thuyết, khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, đức Phật đã đề xướng một chủ thuyết mang tính cách mạng về tín ngưỡng, tôn giáo, phản kháng lại uy quyền thần thánh tuyệt đối của Bà la môn giáo, mà theo đó sự phân biệt đẳng cấp đã trở nên khắc nghiệt, cản trở sự phát triển của kinh tế - xã hội Ấn Độ đương thời. Đó là đức Phật đã minh chứng và khẳng định tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau về bản chất người và có thể tự mình đi trên con đường tu tập để tới giải thoát bằng niềm tin, trí tuệ và đạo đức chứ không phải nhờ đấng siêu nhân, thần thánh bên ngoài. Toàn bộ chủ thuyết đó của đức Phật được khái quát một cách hệ thống trong Tứ Diệu Đế gồm: Khổ đế (Dukkha - Satya), Tập đế (Samudaya - Satya), Diệt đế (Nirodha - Satya) và Đạo đế (Marga - Satya).
Qua Tứ Diệu Đế, đức Phật đã chứng minh được rõ sự không đúng đắn, trung thực của Bà la môn giáo. Đó là đẳng cấp Bà la môn không phải thần thánh, mà họ cũng chỉ là con người, cũng chịu những nỗi khổ như tất cả đẳng cấp khác; Nhưng cánh cửa giải thoát của Bà la môn giáo không phải mở cho tất cả mọi người, mà chỉ dành riêng cho đẳng cấp Bà la môn, vì họ tự coi là thần thánh và có quyền tối thượng về tâm linh. Dựa theo đó, họ thực hiện hầu hết các lễ nghi tôn giáo và tín ngưỡng trong xã hội như là một nghề riêng của đẳng cấp Bà la môn và còn ra thành luật gạt các đẳng cấp thấp kém hơn trong xã hội, không cho họ có cơ hội lựa chọn tôn giáo hay niềm tin giải thoát, nhất là phụ nữ và đẳng cấp nô lệ (Thủ đà la) không được quyền hưởng bất kỳ dịch vụ tôn giáo nào và thậm chí không có quyền tin về sự giải thoát.
Với tinh thần phê phán có tính khoa học như vậy, Phật giáo trở thành một mô hình tôn giáo – tín ngưỡng mới phù hợp hơn với sự phát triển của các lực lượng kinh tế-xã hội Ấn Độ lúc đó. Mặc dù buổi đầu Phật giáo bị xếp vào hàng không chính thống, nhưng với lập trường bình đẳng, và chủ thuyết giản/giảm thần quyền(2) đối với Bà la môn giáo, nó đã phản ánh đúng khát vọng bình đẳng, tự do trước sự cản trở của Bà la môn giáo. Phật giáo đã mở rộng ranh giới tín ngưỡng, và tiếp nhận nhiều đẳng cấp xã hội vốn bị Bà la môn giáo loại ra ngoài phạm vi quyền tín ngưỡng, nên đã đáp ứng trúng nhu cầu tâm linh của người Ấn Độ đương thời. Với những giá trị tiến bộ nói trên, Phật giáo phát triển mau chóng và chỉ qua 3 thế kỷ (từ thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ III trước công nguyên), từ vị thế một tôn giáo không chính thống (Nastika), đã vươn lên thành quốc giáo của Ấn Độ - tức tôn giáo chính thống (Astika), dưới thời vua Asoka, thay thế vị trí của Bà la môn giáo.
Để khẳng định lại vị thế chính thống đã bị mất, Bà la môn giáo buộc phải làm một cuộc canh tân, gọi là Tân Bà la môn giáo trên cơ sở tiếp thu nhiều hạt nhân hợp lý của Phật giáo và các tôn giáo đương thời, đặc biệt tiếp thu sự phê phán về bất bình đẳng niềm tin tôn giáo của Phật giáo. Kết quả của cuộc canh tân này là Bà la môn giáo đã đổi tên thành Hindu giáo với nghĩa là tôn giáo của tất cả người Hindu (tức người Ấn Độ). Như vậy, Hindu giáo không còn là tôn giáo của riêng đẳng cấp Bà la môn. Phật giáo đã có công lớn làm thay đổi hẳn diện mạo, nội dung và tên gọi của Bà la môn giáo, đó chính là nhờ tư tưởng về bình đẳng niềm tin tôn giáo của đức Phật, được hàm nghĩa rất rõ trong Tứ Diệu Đế.
Phật giáo Ấn Độ đã để lại biết bao thành tựu và giá trị to lớn trên nhiều lĩnh vực và đặc biệt là các giá trị tư tưởng, đạo đức, nghệ thuật, giáo dục... song có lẽ thành công nhất mà đức Phật đã để lại cho nhân loại là một mô hình tôn giáo bình đẳng cho tất cả mọi người, không còn phân biệt đẳng cấp về niềm tin tôn giáo, đó là Phật giáo (Buddhism) toàn khác với các tôn giáo nguyên thủy và tôn giáo thần quyền khác. Đó chính là sức sống của Phật giáo đối với nhân loại, nhất là khi mà nhiều học thuyết chính trị, xã hội, tôn giáo đưa ra các mô hình xã hội lý tưởng cho nhân loại, song đều chưa trở thành hiện thực, thậm chí vấn đề Khổ của nhân loại hình như không hề giảm mà có lúc, có nơi lại biến tướng thành những bi kịch.
Tuy nhiên, sau khi Hindu giáo giành lại được vị thế chính thống, kèm theo nhiều nguyên nhân chính trị, kinh tế – xã hội, chiến tranh, ngoại xâm... Phật giáo gần như không tiếp tục phát triển được ở Ấn Độ. Nhưng tính nhân văn, tiến bộ như phân tích trên đã trở thành sức sống khiến Phật giáo lan tỏa nhanh chóng sang các nước láng giềng rồi trở thành tôn giáo lớn của phương Đông ngay từ đầu Công nguyên, đến này nhiều nước vẫn còn duy trì Phật giáo như quốc giáo hay tôn giáo truyền thống của dân tộc, và ngày nay đang lan sang cả các nước phương Tây.
Ngày nay, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế kỷ XXI đã có nhiều thành công lớn cho phép con người thực hiện nhiều ước mơ, bắt thiên nhiên phục vụ con người và phát huy được nhiều năng lực tiềm ẩn của con người v.v... nhưng vẫn chưa có thành tựu nào vượt qua được bản chất Khổ của con người mà đức Phật đã tổng kết từ hàng ngàn năm xưa! Chẳng hạn, y học, tâm lý học đã tiến bộ gấp nhiều lần so với thời đức Phật, nhưng vẫn chưa thể giúp con người thoát được quy luật: sinh - lão - bệnh - tử; kinh tế thị trường cùng các ngành công nghệ và kỹ thuật cao..., có lúc đã chạy theo chủ nghĩa tiêu dùng, với hy vọng rằng khi dư thừa vật chất của cải thì con người sẽ hạnh phúc. Nhưng ngược lại, ngay trong điều kiện vật chất dư thừa, con người lại đối diện với nỗi đau khổ một cách cay nghiệt hơn, và chúng vẫn không ngoài các nỗi khổ mà đức Phật đã tổng kết trong Khổ đế. Đây cũng là những nội dung mà nhiều tôn giáo hữu thần truyền thống của phương Tây (Công giáo, Tin Lành, Do Thái...) chưa giải quyết được, nó
khiến cho Phật giáo có thể đến được với nhiều trí thức và người dân phương Tây ngay ở các nước phát triển cao.
Ngày nay, Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới đặc biệt thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học và những bộ óc duy lý phương Tây bởi chính phương diện giá trị đạo đức nhân văn độc đáo mà xã hội phát triển hiện đại đang thiếu hụt. Nhà bác học Albert
Einstein người phát hiện ra thuyết tương đối đã có nhận định về sự tuyệt đối, siêu vượt thời gian của Phật giáo: “Phật giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo với những tư tưởng khoa học, khích lệ con người khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong bản thân con người và môi trường sống của con người. Phật giáo là siêu vượt thời gian”(3). Tiềm năng “tuyệt đối” mà Einstein nói đến chắc không phải về phương diện máy móc, cơ giới mà phải là về nhân phẩm, nhân tính, đạo đức, niềm tin. Dĩ nhiên, Einstein không thể nói tới một Phật giáo siêu vượt thời gian ngoài tồn tại người (!)
Tính nhân loại mà Phật giáo đã khẳng định được chính là sức sống, sức thuyết phục có thể xuyên suốt truyền thống tư tưởng Ấn Độ cũng như hội nhập với phương Tây hiện đại và đang tỏ ra có tiềm năng giúp nhân loại vượt qua những thách thức về nhân tính, nhân phẩm trong bối cảnh hiện đại.
* PGS.TS. Hoàng Thị Thơ. Viện Triết học – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
1. 6 hệ thống chính thống gồm: Mimansa, Vedanta, Samkhya, Yoga, Nyaya, Vaisesika ; và 3 không chính thống gồm: Jaina giáo, Phật giáo và Lokayata. , và Phật giáo thuộc không chính thống.
2. Giản/ giảm thần quyền nghĩa là làm giảm tính thiêng liêng như là quyền lực siêu nhiên (siêu nhân) tuyệt đối của các vị tổ của mỗi tôn giáo, ví dụ như đức chúa Trời của Ki tô giáo, đức Mô Ha Mét của Islam giáo... là các đấng tối cao sinh ra muôn loài và thế giới và có quyền ban phát sự giải thoát cho chúng sinh nơi trần gian...
3. Trích dịch từ Collected famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm. Nguyên văn: “Buddhism is a bridge between religious and scientific thoughts, that the stimulates man to discover the talent potentialities within himself and his environment. Buddhism is timeless”.
Bình luận bài viết