Đông Triều Hầu Trần Đình Ân (1624 - 1705), một danh thần thời chúa Nguyễn
ĐÔNG TRIỀU HẦU TRẦN ĐÌNH ÂN (1624 – 1705),
MỘT DANH THẦN THỜI CHÚA NGUYỄN
TRẦN ĐÌNH SƠN
Suốt hai thế kỷ XVII – XVIII, đạo Phật gặp nhiều thuận duyên, phát triển nhanh chóng từ vùng đất Thuận Hóa đến khắp đồng bằng Nam Bộ.
Sở dĩ được như vậy là nhờ trong chốn thiền môn nối nhau xuất hiện các bậc cao tăng như Viên Cảnh, Viên Khoan, Minh Châu, Nguyên Thiều, Liễu Quán... Ngoài xã hội thì các chúa Nguyễn hết lòng hộ trì Tam bảo. Trong số các vị cư sĩ hộ pháp mà danh tiếng còn lưu truyền đến này có Trần Đình Ân.
Tổ tiên Trần Đình Ân nguyên quán ở làng Hà Trung, Thanh Hóa, sau theo chúa Nguyễn Hoàng vào lập làng Hà Trung ở huyện Minh Linh, phủ Quảng Bình, xứ Thuận Hóa (nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị).
Trần Đình Ân sinh năm Giáp Tý (1624). Trưởng thành, ông ra làm quan Thủ bạ đời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan. Đời Hiền vương Nguyễn Phước Tần, trong trận chiến thứ bảy với quân Trịnh (1672), ông hiến kế “dĩ hư phá hư” giúp quân Nguyễn chiến thắng từ đó chấm dứt chiến tranh, hai miền Nam, Bắc hòa bình 100 năm. Thời Minh vương Nguyễn Phước Chu, vua sáng gặp tôi hiền, Trần Đình Ân đem hết tài năng ra phụng sự. Ông được trao chức vụ Tham chính đoán sự, tước Đông Triều Hầu, làm mưu thần thân tín bên cạnh chúa. Nhờ tài nội trị của ông mà hậu phương Phú Xuân vững mạnh, giúp cho danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh yên tâm lo việc bình định, mở mang đất nước ở phương Nam. Công nghiệp của ông còn lưu mãi với lịch sử dân tộc. Trong bài này chúng tôi xin giới thiệu sơ lược công đức của Trần Đình Ân đối với đạo pháp. Trần Đình Ân là một Phật tử thuần thành, chính thức quy y với pháp danh Tịnh Tín, đạo hiệu Minh Hồng. Như vậy ông cùng thế hệ với tổ sư Minh Châu Hương Hải (1628–1715); hoặc có thể là đệ tử tại gia của thiền sư Viên Cảnh (Lục Hồ) hoặc Viên Khoan (Đại Thâm), là hai vị danh tăng đương thời tại quê hương ông. Dòng thiền này có ảnh hưởng mạnh mẽ ở xã hội Nam Hà, trước khi có cải cách Phật giáo dưới thời Minh vương.
Năm Bính Ngọ (1666), Trần Đình Ân phụng mệnh Hiền Vương làm hội chủ xây dựng chùa Vinh Hòa trên núi Quy Cảnh (núi Cổ Rùa, về sau gọi là núi Linh Thái, gần cửa biển Tư Hiền, Thừa Thiên). Năm Đinh Mùi (1667), chùa xây dựng xong quy mô tốt đẹp, cử hành đại lễ khánh thành. Sau đó chúa thỉnh thiền sư Minh Châu Hương Hải đang tịnh tu ngoài đảo Tiêm Bút La (nay là Cù lao Chàm – Quảng Nam) về trú trì và thành lập đạo tràng Thiền Tịnh, hướng dẫn việc tu tập cho vương thất, quan dân ở Thuận Hóa. Ngày nay, chùa Vinh Hòa, Thiền Tịnh viện đã bị hoang phế, nhưng bài thơ ca ngợi Trần Đình Ân vẫn còn lưu truyền:
Lồng lộng tôn nghiêm bóng Phật đài,
Theo làn gió tuệ quét trần ai.
Bồ đề cây ấy vốn không có,
Gương sáng không đài há thấy đài.
Lương Đế, Đàm Tăng nào vượt quá,
Đường Tông, Huyền Lão há thua tài.
Mới hay đức lớn quỷ thần phục,
Lại thấy thiền môn tỏa ánh ngời.[1]
Năm Đinh Tỵ (1677), Trần Đình Ân được cử làm hội chủ xây dựng chùa Bình Trung tại quê nhà. Ngày nay chùa đã bị binh lửa thiêu hủy, nhưng may mắn chiếc khánh đồng của chùa vẫn còn được bảo tồn tại quốc tự Thiên Mụ. Chiếc khánh dài 1,60 m, rộng 0,80 m trên hai mặt trang trí “nhật nguyệt, tinh tú”. Mặt trước ghi “Bình Trung quán khánh” và “Vĩnh Trị nhị niên, tuế thứ Đinh Tỵ, trọng thu tạo” (Khánh của quán Bình Trung đúc vào tháng 8 năm Đinh Tỵ (1677), niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 triều Lê Hy Tông). Mặt sau ghi “Hội chủ Trần Đình Ân, đạo hiệu Minh Hồng, pháp danh Tịnh Tín” và “thập phương công đức”. Đây là một văn vật quý hiếm thời chúa Nguyễn còn sót lại; là một pháp khí vô giá của Phật giáo Việt Nam, được đúc trước đại hồng chung Thiên Mụ 23 năm.
Chiếc khánh dài 1,60 m, rộng 0,80 m trên hai mặt trang trí “nhật nguyệt, tinh tú”
Năm Ất Hợi (1695), Minh vương cung thỉnh hòa thượng Thạch Liêm từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang Thuận Hóa để tổ chức Đại giới đàn, cải cách Phật giáo. Trần Đình Ân lúc này là bậc “Tứ triều nguyên lão đại thần”, đã cùng với con đến tham học và xin thọ giới tại gia Bồ tát với với hòa thượng Thạch Liêm. Hòa thượng rất cảm phục tài năng, đức độ và đạo tâm của Trần Đình Ân nên đặc biệt xưng tụng ông là bậc Đại sĩ, và giao tình tương đắc, mật thiết.
Năm Quý Mùi (1703) Trần Đình Ân đã 78 tuổi. Sau nhiều lần thỉnh cầu, ông được Minh vương cho phép từ quan về an dưỡng tu hành ở chùa Bình Trung. Chúa ban thưởng trọng hậu, đích thân viết bài tựa và thơ vào vải lụa hoa trắng để tiễn tặng như sau:
“Quốc chúa Thiên Túng đạo nhơn ngự chế thơ và bài tựa ban cho Tham chính đoán sự Đông Triều Hầu Trần Đình Ân từ chức về làng. Khanh trải thờ bốn triều, quốc chính triều cương có nhiều giúp đỡ. Bề tôi siêng năng, duy khanh hơn cả. Lại tính hay nhún nhường, êm dịu, vui đạo thích lành nên lan quế thơm tho, một nhà vinh hiển. Tuổi gần 80 mà chưa suy hèn, thực là phước thọ của nước nhà ta. Nay vì mến đạo ưa tĩnh, từ quan chức xin về làng, ta hai ba lần cố giữ mà cuối cùng không cản được chí. Khi từ biệt ra về, ta đặc tứ 10 mẫu ruộng và 10 lính hầu, dùng để dưỡng lão. Sợ thế chưa phỉ lòng ta, nên tặng một bài thơ thất ngôn để trọn ý ta vậy”. Thơ rằng:
Âm:
Trì thân chí thiện tính tinh thuần,
Phụ tán ngô triều tứ thế nhân.
Chính nghiệp dĩ thành từ tử thụ,
Đạo tâm hằng hiện khước hồng trần.
Hi hi hạc phát đồng Thương hạo,[2]
Nghiễm nghiễm tiên phong diệc Hán thần.[3]
Thử khứ Quảng Bình hà sở sự,
Thanh thiên lục thủy lạc thiên luân.
Nghĩa:
Suốt đời giữ thiện tánh tinh thuần
Giúp việc bốn triều bậc lão nhân,
Sự nghiệp đã thành từ mũ ấn
Đạo tâm thường hiện lánh hồng trần
Phơ phơ tóc bạc như Thương hạo
Phơi phới lòng tiên tựa Hán thần
Về ở Quảng Bình chi bận nhĩ?
Non xanh nước biếc thỏa tinh thần.[4]
Cảm động lẫn vinh dự trước ân tình của quân vương đối với vị lão thần, con rễ Trần Đình Ân là Bảng Trung Hầu Nguyễn Khoa Chiêm viết lại bài tựa và thơ ngự chế khắc vào bia đá dựng trước cổng chùa Bình Trung vào ngày mồng 2 tháng 11 năm Quý Mùi, niên hiệu Chính Hòa thứ 24 (1703) để kỷ niệm. Trần Đình Ân ẩn cư tu hành tại đây đến năm Bính Tuất (1706) thì mệnh chung, hưởng thọ 81 tuổi. Được tin, Minh vương và triều thần vô cùng thương tiếc, truy tặng: ĐÔN HẬU CÔNG THẦN ĐẶC TIẾN TRỤ QUỐC KIM TỬ VINH LỘC ĐẠI PHU, ĐẠI LÝ TỰ KHANH; ban thụy: Thuần Thiện. Triều Minh Mạng năm thứ 5 (1824), truy phong ông làm thần Cảnh Lượng, cho dân xã Hà Trung phụng thờ.
Nhờ phước đức sâu dày mà dòng dõi Trần Đình Ân trải qua nhiều đời hiển đạt như Đình Khánh, Đình Thuận, Đình Hỷ (dưới thời các chúa Nguyễn); Đình Trung, Đình Túc, Đình Phác (thời các vua Nguyễn), danh thơm lưu truyền quốc sử.
1. Nguyễn Khoa Chiêm, Việt Nam khai quốc chí truyện. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch. Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1994; tr. 506.
2. Thương sơn tứ hạo, chỉ 4 ông già ở ẩn trên Thương lãnh, vua Hán Cao Tổ mời ra làm quan nhưng không thuận.
3. Chỉ Trương Lương, khai quốc công thần nhà Hán, sau khi thành công, ông đã từ bỏ phú quý đi tu tiên.
4. Đại Nam liệt truyện, tiền biên. Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993. Đại Nam thực lục, tiền biên. Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, tr. 160-161.
Bình luận bài viết