TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 26
Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
*****
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Hiệu đính: TK. Thích Đồng Bổn -
NNC Vu Gia - Cư sĩ Minh Ngọc
QUYỂN 3 (Tập 26)
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi lăm, hàng thứ tư, từ dưới đếm lên, xem từ chữ cuối cùng.
“Hựu Tán Bồ đề tâm viết: Nhược nhân cầu Phật tuệ, thông đạt Bồ đề tâm, phụ mẫu sở sinh thân, tốc chứng Đại Giác vị” (Lại nữa, bài Tán Bồ đề tâm có đoạn: “Nếu ai cầu Phật tuệ, thông đạt Bồ đề tâm, từ thân cha mẹ sinh, mau chứng ngôi Đại Giác”).
Trong những điều được giảng bởi bốn câu kệ này, câu đầu tiên nói về sự học Phật, các đồng học chúng ta phải chú ý, học Phật là học gì? Là cầu Phật tuệ; Phật tuệ ở đâu? Phật tuệ vốn sẵn có. Tuy sẵn có, nhưng chúng ta mê mất. Cầu Phật tuệ là tìm lại trí tuệ Bát nhã sẵn có trong tự tính, đó gọi là “học Phật”, thật sự học Phật! Trong Đại Kinh thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta một câu mà đức Phật đã nói rất nhiều lần: “Một tức là hết thảy, hết thảy tức là một”. Tìm được Phật tuệ thì toàn bộ vô lượng công đức trong tự tính đều tìm được. Đức Phật thường nhắc tới trí tuệ và đức tướng, ở đây chỉ nói đại lược những điều chính yếu, chứ nói chi tiết sẽ chẳng thể nói trọn!
Vô lượng vô biên trí tuệ và đức tướng toàn bộ đều tìm lại được, đó là thật sự học Phật. Quan trọng nhất trong việc cầu Phật tuệ là phát Bồ đề tâm. Ở đây, “thông” và “đạt” đều mang ý nghĩa “phát”. “Thông” là thông suốt, trôi chảy, chẳng có chướng ngại, “đạt” là đạt đến. Bồ đề tâm là gì? Trước, tôi đã thưa cùng quý vị, “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác, từ bi” viên mãn! Nay chúng ta tìm lại Bồ đề tâm như thế nào? Thứ nhất, tâm chúng ta chẳng chân thành! Vì sao? Tâm chúng ta có chấp trước, có phân biệt, có vọng tưởng. Nếu nói thông thường đơn giản, thì không khởi tâm, không động niệm sẽ là chân tâm, khởi tâm động niệm là vọng tâm.
Vì sao có vọng tâm? Đức Phật nói rất hay: “Nhất niệm bất giác nhi hữu vô minh” (một niệm bất giác bèn có vô minh). Một niệm bất giác là vô minh, gọi là vô thỉ vô minh. Vô thỉ chẳng phải là quá khứ quá lâu chẳng thể tìm được bèn gọi là vô thỉ, chẳng phải là ý nghĩa ấy! Thưa quý vị, vô thỉ là chẳng có khởi đầu, đúng vậy, nó là nhất niệm ngay trong lúc này! Bồ tát Di Lặc đã nói, trong một giây, hiện thời chúng ta dùng giây làm đơn vị, nếu một giây khảy ngón tay năm lần, sẽ có một ngàn sáu trăm triệu niệm. Một niệm trong ấy gọi là “nhất niệm bất giác”. Chẳng phải là chúng ta tưởng tượng mà nói ra; chúng ta tưởng tượng thì sẽ chẳng biết có bao nhiêu niệm. Mỗi vọng tưởng đều dùng con số “triệu” để tính toán. Một niệm ngắn nhất trong một cái khảy ngón tay, nhưng một cái khảy ngón tay đã trải qua ba trăm hai mươi triệu niệm. Đức Phật nói tới cái niệm ấy, niệm ấy vô thỉ. Niệm niệm đều vô thỉ; do vậy, niệm niệm cũng chẳng diệt, bất sinh, bất diệt, thật vậy! Quý vị chẳng tìm được sự sinh diệt của nó. Vì thế, đối với vấn đề này, chúng ta thường hiểu nó là sinh diệt đồng thời, tốc độ quá nhanh! Không chỉ chẳng có cách nào diễn tả bằng ngôn ngữ, mà ngay cả thức thứ sáu của chúng ta cũng chẳng nắm bắt được sự sinh diệt ấy.
Thức thứ sáu phân biệt nhanh lẹ nhất mà vẫn chẳng nắm bắt được! Vì sao đức Phật biết được ý niệm vi tế như thế là nhất niệm bất giác? Đức Phật dạy: Từ Bát Địa Bồ tát trở lên đều biết! Chúng ta bèn hiểu Bát Địa Bồ tát có công phu định lực ra sao, quý vị tu Thiền Định đến Bát Địa sẽ thấy. Tâm phải thanh tịnh dường ấy mới có thể cảm nhận được sự sinh diệt trong dao động vô cùng vi tế ấy, khởi lên và diệt mất có cùng ý nghĩa với sinh diệt. Vì thế, Bát Địa Bồ tát thấy được, Cửu Địa thấy được, Thập Địa thấy được, Đẳng Giác thấy được, Diệu Giác thấy được, rất nhiều người thấy, chẳng phải chỉ một. Vì vậy, Bồ đề là giác ngay trong một niệm hiện tiền, vô minh là một niệm mê ngay trong hiện tiền. Một niệm giác sẽ bất động. Huệ Năng đại sư đã nói rất hay: “Nào ngờ tự tính vốn chẳng lay động”, đó là một niệm giác. Một niệm mê là vọng động, là chuyển động. Vô minh là tướng động, cho nên Nghiệp Tướng của A Lại Da là vô minh, tức vô thỉ vô minh.
Vì vậy, chúng ta cầu Phật tuệ, nhất định phải phát Bồ đề tâm. Hiện tại, tâm chúng ta chẳng thành thật, chúng ta hiểu rõ điều này, đúng là chẳng chân thành. Chúng ta phải học theo đức Phật, học theo Pháp thân Bồ tát, sử dụng chân tâm, dùng thành ý, phải bắt đầu ngay từ bây giờ, chớ nên chờ đợi! Hễ chờ đợi là xong luôn, phải thực hiện ngay trong hiện tiền, xử sự, đãi người, tiếp vật, sinh sống, làm việc đều dùng cái tâm chân thành. Mọi người nghĩ trong xã hội này, nếu dùng cái tâm chân thành sẽ rất thiệt thòi, người khác lừa gạt ta, ta chẳng lừa người khác sẽ bị thiệt thòi.
Quý vị phải giác ngộ, kẻ khác lừa ta, ta cũng lừa hắn, như vậy chính là người khác tạo nghiệp lục đạo, ta cũng tạo nghiệp lục đạo, người khác tạo nghiệp tam đồ, ta cũng tạo nghiệp tam đồ, chẳng phải là ý nghĩa ấy hay sao? Nếu quý vị muốn thoát ly tam đồ, thoát ly mười pháp giới, hãy học theo Phật, Bồ tát hành chân thật, chẳng giả. Điều này rất trọng yếu, đó là giác ngộ!
Quý vị nhất niệm giác, sẽ chẳng theo sóng đuổi sóng, chẳng tạo nghiệp trong biển khổ lục đạo, chẳng tạo nữa, sử dụng tâm chân thành. Tâm chân thành xét theo Tự Thụ Dụng là tâm thanh tịnh, quả thật chẳng còn nhiễm dơ nữa, điều này cần phải có công phu. Vì sao? Trong thế gian này, đặc biệt là trong xã hội hiện tiền, ngũ dục lục trần luôn dụ dỗ, mê hoặc quý vị, tài, sắc, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ, thứ gì cũng đều dụ dỗ, mê hoặc, mà quý vị có thể chẳng bị lay động thì mới đắc tâm thanh tịnh. Nếu quý vị bị chúng lay động, tâm thanh tịnh sẽ mất đi ngay lập tức, Bồ đề sẽ chẳng thông suốt, con đường ấy chẳng thông suốt. Tâm thanh tịnh thì con đường ấy sẽ thông suốt. Sau khi đắc tâm thanh tịnh, nếu còn có thể tiến thêm bước nữa, đắc tâm bình đẳng. Bình đẳng là Phật tâm.
Phật nói ở đây chính là địa vị Phật trong mười pháp giới, Phật tâm. Tiến cao hơn bước nữa là vị Phật thật sự, Bồ đề tâm bèn thông suốt, đạt tới viên mãn.
Do vậy, biết tâm bình đẳng gần với Bồ đề tâm nhất. Quý vị xem tiêu đề kinh này, sau “thanh tịnh, bình đẳng” là “giác”; bình đẳng mới có thể giác, bất bình đẳng sẽ chẳng giác. Phải triệt để diệt sạch tập khí ngã mạn thì mới bình đẳng. Từ chỗ này, quý vị có thể hiểu rõ vì sao phải học khiêm ty? Vì sao ta phải khiêm ty đối với người khác, khiêm ty đối với hết thảy chúng sinh? Vốn là để thông với Bồ đề tâm. Mảy may tập khí kiêu mạn nào sẽ đều chướng ngại Bồ đề tâm, chẳng thông suốt.
Quý vị nói xem: Khiêm ty có ích cho ai? Có đại lợi ích cho chính mình! Chẳng phải là đối với người khác, mà sự thật là thông suốt Bồ đề tâm của chính mình! Quý vị nói xem chuyện này có trọng yếu lắm hay chăng? Thông đạt Bồ đề tâm phải thực hiện bằng khiêm ty; khiêm ty đối với người khác, khiêm ty đối với hết thảy động vật, đối với muỗi, trùng, kiến đều khiêm ty, chúng ta gọi chúng nó là “Bồ tát kiến, Bồ tát muỗi”. Cung kính từ nội tâm đối với chúng nó, chúng nó sẽ cảm nhận được! Hiện thời, kể như chúng ta đã hiểu rõ, học sách Hoàn Nguyên Quán, chúng ta biết mỗi vi trần, mỗi sợi lông, hay nói theo thuật ngữ khoa học hiện tại, mỗi tế bào, mỗi hạt (hạt cơ bản), đều do Ngũ Uẩn : Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hiện ra. Nói cách khác, nó có thể tích rất nhỏ, nhục nhãn của chúng ta chẳng thể thấy được! Nó có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những thứ này là A Lại Da, nó có thể biến hiện vạn pháp. Hết thảy vạn pháp đều do những hạt cơ bản này hợp thành. Có khoa học gia nói những hạt cơ bản này là một hiện tượng dao động. Chẳng sai! Quả thật là hiện tượng dao động, một niệm bất giác là dao động, từ dao động mà có, nói chẳng sai tí nào! Hễ chẳng động bèn chẳng có, Ngũ Uẩn chẳng có! Vì thế, Bát nhã hiện tiền, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không; nay chúng ta biết Ngũ Uẩn là hạt cơ bản, nhỏ hơn tế bào!
Thật sự có thể thông đạt thì “phụ mẫu sở sinh thân, tốc chứng Đại Giác vị” (thân do cha mẹ sinh, mau chứng ngôi Đại Giác). Hai câu này nói đến sự chứng đắc Phật quả viên mãn rốt ráo trong một đời. Chỉ cần quý vị dùng Bồ đề tâm, chắc chắn có thể chứng đắc. Pháp môn Tịnh Tông này bảo đảm quý vị thành tựu trong một đời, chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, thật sự tu hành, công phu chân thật, trong cuộc sống chẳng còn khởi tâm động niệm nữa. Trong công việc, trong đãi người, tiếp vật, trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn thành Phật viên mãn!
Chuyện này chưa thể làm được! Chưa thể không khởi tâm, không động niệm, khó quá! Chẳng phải là người tầm thường mà hòng làm được. Phật pháp nói người có thể làm được như vậy là bậc thượng thượng căn. Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện như thế.
Tại Trung Quốc, vào đời Đường, Huệ Năng đại sư cũng biểu diễn, bậc thượng thượng căn đấy! Kẻ căn cơ trung hạ, tập khí phiền não nặng nề huân tu từ vô thỉ kiếp gặp duyên, có thể tu hành thành tựu trong một đời hay không? Thiện Đạo đại sư đã nói một câu rất hay: “Tổng tại ngộ duyên bất đồng” (nói chung là do gặp duyên sai khác). Duyên là cơ hội! Nếu quý vị gặp được cơ duyên tốt đẹp, sẽ có thể thành tựu, sẽ quay đầu trong một đời này!
Gặp gỡ thánh giáo, gặp Đại thừa, gặp Tịnh Độ, là duyên!
Gặp gỡ thiện tri thức tốt lành, tức là gặp thầy, thiện hữu và đồng học tốt lành, gặp hoàn cảnh tu học tốt đẹp, thật sự khó! Quả thật chẳng dễ dàng!
Những điều ấy quý vị đều gặp, chắc chắn sẽ thành tựu trong một đời này, duyên trọn đủ, thiện căn trọn đủ, phước đức trọn đủ. Thiện căn là có thể tin, có thể hiểu; phước đức là thật sự làm. Vậy thì quý vị sẽ nhanh chóng chứng địa vị Đại Giác.
Tiếp theo: “Hựu chư kinh chi vương Hoa Nghiêm kinh vân: Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp” (Lại nữa, vua của các kinh là kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Tu các pháp lành mà quên mất Bồ đề tâm thì gọi là ma nghiệp”).
Kinh Hoa Nghiêm nói như thế, chúng ta đọc qua, nhưng tu hành bèn quên luôn Bồ đề tâm. Thật sự! Thậm chí quý vị học tập kinh giáo, giảng kinh, thuyết pháp trên giảng đài, quên sạch Bồ đề tâm. Cớ sao quên sạch? Chẳng phải là tâm chân thành, vẫn xen tạp tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn xen tạp tự tư tự lợi, quên sạch Bồ đề tâm, quên sạch sành sanh ư! Nói cách khác, hễ còn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng có Bồ đề tâm! Đó là gì? Đó là tâm lục đạo chúng sinh, là tâm luân hồi. Tâm luân hồi giảng kinh cũng là nghiệp luân hồi, bất quá nó là thiện nghiệp trong nghiệp luân hồi, quả báo trong tương lai là tam thiện đạo, không thoát khỏi lục đạo luân hồi, vì vậy, nói nó là ma nghiệp!
Do đó, tu hết thảy các thiện pháp, tu Phật pháp, đều gọi là ma nghiệp, là phước báo trong lục đạo. Quý vị tu đến Sắc Giới Thiên, tu tới Vô Sắc Giới Thiên, vẫn chưa được! Tuổi thọ trong Vô Sắc Giới Thiên đã hết, vẫn phải đọa lạc, ngạn ngữ bảo là “trèo cao, ngã đau”.
Trèo tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, sau khi đã chết, trong kinh đức Phật thường dạy, thường là đọa xuống A Tỳ địa ngục. Vì sao? Tín tâm của người ấy dao động! Người ấy lầm tưởng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên là Đại Bát Niết Bàn do chư Phật đã chứng đắc, ngỡ là đạt tới cảnh giới ấy thì chính mình đã chứng đắc Đại Bát Niết Bàn, bất sinh, bất diệt! Tới khi công phu định lực mất đi, thọ mạng như trong kinh đã nói cũng chính là công phu định lực của vị trời ấy, công phu định lực của vị ấy tồn tại tám vạn đại kiếp.
Khi đã hết tám vạn đại kiếp,Định mất đi. Khi mất đi, vị ấy bèn nghĩ: “Trước kia, chư Phật, Bồ tát đã dối gạt ta, chứng đắc Đại Niết Bàn sẽ chẳng sinh, chẳng diệt. Cớ sao nay phiền não của ta lại hiện hành?”. Do một niệm ấy bèn tạo tội nghiệp A Tỳ địa ngục, hủy báng thánh hiền, Phật, Pháp, Tăng. Do tội nghiệp ấy bèn đọa địa ngục, quý vị nói có đáng sợ lắm hay không? Vị ấy chẳng biết chính mình lầm lỗi, lại đổ thừa Tam Bảo. “Phát tâm chi yếu, bất ngôn khả dụ” (Tầm trọng yếu của phát tâm, chẳng thể dùng lời lẽ nào tỷ dụ được), chúng ta nhất định phải nhớ lời này!
Kế tiếp: “Nguyên Hiểu sư đẳng” (các vị như ngài Nguyên Hiểu v.v…), vị này đã nói trong phần trước, “dĩ phát Bồ đề tâm vi chính nhân, niệm Phật vi trợ nhân” (cho rằng: Phát Bồ đề tâm là chính nhân, niệm Phật là trợ nhân). Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã tuân theo ý nghĩa này! Trong bản Yếu Giải chú giải kinh Di Đà của Ngẫu Ích đại sư, Ngài nói “có thể vãng sinh hay không là do tín nguyện có hay không quyết định”. Quý vị thấy tín nguyện là phát Bồ đề tâm là chính nhân, còn công phu niệm Phật sâu hay cạn sẽ quyết định phẩm vị cao hay thấp sau khi vãng sinh Cực Lạc. Có thể vãng sinh hay không do tín nguyện quyết định; phẩm vị cao thấp do công phu niệm Phật của quý vị quyết định.
Ngẫu Ích đại sư cũng giảng cùng một ý nghĩa với các vị như ngài Nguyên Hiểu: “Ngã quốc Thiện Đạo, Linh Chi dữ Nhật Bản Tịnh Tông chư gia, tắc dĩ trì danh vi Chính Hạnh, phát tâm vi Trợ Hạnh” (Các vị như Thiện Đạo, Linh Chi của nước ta và các vị trong Tịnh Tông Nhật Bản coi trì danh là Chính Hạnh, phát tâm là Trợ Hạnh). Đấy là “người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”. Các vị tổ sư đại đức có quan điểm khác nhau, có những vị nghĩ trì danh niệm Phật là Chính Hạnh, phát Bồ đề tâm là Trợ Hạnh. Chính và Trợ phải cùng tu. Có Chính mà chẳng có Trợ, sẽ chẳng thể thành công. Có Trợ mà chẳng có Chính, cũng chẳng thể thành công.
Do vậy, Liên Trì đại sư dung hội trong Di Đà Kinh Sớ Sao. Liên Trì đại sư đã “hòa hội chi viết: Hoàn dĩ trì danh vi Chính Hạnh, phục dĩ trì danh vi phát Bồ đề tâm” (bèn nói dung hòa, tổng hợp rằng: “Vẫn lấy trì danh làm Chính Hạnh, lại coi trì danh là phát Bồ đề tâm”). Thật sự trì danh là phát Bồ đề tâm. Vì sao? Vì trì danh niệm Phật đến nhất tâm bất loạn chẳng phải là Bồ đề tâm ư? Trì danh chưa đạt tới nhất tâm bất loạn sẽ chẳng phải là Bồ đề tâm, chư vị phải biết điều này! Bồ đề tâm là tâm thanh tịnh, là tâm bình đẳng. Ta niệm một câu Phật A Di Đà này, niệm suốt ngày từ sáng đến tối, trong tâm là A Di Đà Phật, miệng là A Di Đà Phật, toàn bộ những thứ khác đều buông xuống, đó là Bồ đề tâm. Nếu ta niệm A Di Đà Phật, cầu sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng chẳng buông những thứ khác xuống, để chúng xen tạp vào đó, sẽ chẳng phải là Bồ đề tâm. Các thuyết đều có lý, Liên Trì đại sư muốn dung hội, đấy là “một là hết thảy, hết thảy là một”, pháp môn Bất Nhị, Bồ đề tâm và trì danh là một, không hai. Thật sự trì danh niệm Phật, quả thật đã viên mãn Bồ đề tâm. Nếu không, cớ sao khi người ấy vãng sinh lại có thể có tướng lành tốt đẹp ngần ấy, biết trước lúc mất, ra đi rất tiêu sái, rất tự tại? Do Bồ đề tâm! Trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã nói: “Tắc song thủ lưỡng gia nhi hòa hội kỳ nghĩa dã” (dùng cả hai thuyết để dung hội ý nghĩa).
“Kim sùng” (nay tôi đề cao), hiện thời, chúng ta tôn trọng, “phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm vi bổn kinh chi Tông” (phát Bồ đề tâm, một mực chuyên niệm là Tông của kinh này). Đấy là ghép chung phát tâm và trì danh lại thành tông chỉ và nguyên tắc chỉ đạo tu học trong kinh này. Nói cách khác, Tông ấy là Tông của bản kinh bậc nhất trong Tịnh Độ Tông, mà tám chữ “phát Bồ đề tâm, luôn luôn chuyên niệm” cũng là nguyên tắc chỉ đạo tối cao trong tu Tịnh Độ, “Chính thị song thủ lưỡng gia” (tức là lấy ý kiến của cả hai học phái). “Lưỡng gia” là hai phái, tức hai học phái xưa nay, thu nhận chủ trương của hai học phái.
“Phục hựu nhiếp quy danh hiệu, chính dữ Liên Trì đại sư chi ý tương khế” (lại còn nhiếp về danh hiệu, thật sự khế hợp với ý của Liên Trì đại sư). Phát tâm vãng sinh, đương nhiên phẩm vị vãng sinh càng cao càng hay! Đấy là do trì danh, sốt sắng, thật thà niệm Phật, phẩm vị bèn cao. Chúng ta phải hiểu rõ ràng, minh bạch những ý nghĩa này, sẽ rất hữu ích đối với sự tu học của chính mình.
“Thả thử bát tự, triển chi tắc vi Triệt Ngộ thiền sư chi giáo” (Vả nữa, tám chữ ấy khai triển sẽ thành lời dạy của thiền sư Triệt Ngộ), khai triển tám chữ ấy sẽ thành bốn câu nói của Triệt Ngộ đại sư: “Chân vị sinh tử, phát Bồ đề tâm, dĩ thâm tín nguyện, trì Phật danh hiệu” (thật sự vì sinh tử, phát tâm Bồ đề, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật). Lão nhân gia niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ, là bậc đại đức trong nhà Thiền, quay đầu niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.
Chúng ta phải ghi nhớ nghĩa chữ ấy, thật sự vì sinh tử, không tạo nghiệp sinh tử luân hồi nữa, sinh tử luân hồi khổ chẳng thể nói được! Sau khi ta thoát ly lục đạo, sẽ thành tựu trong thế giới Cực Lạc; nói thật ra, chẳng thành tựu cũng được! Vừa đến thế giới Cực Lạc, ngay lập tức tới mười phương thế giới hóa độ chúng sinh cũng được. Vì sao? Bản nguyện và oai thần của Phật Di Đà gia trì quý vị. Tuy quý vị là phàm phu, nhưng trí tuệ và đức năng bằng với Thất Địa Bồ tát. Quý vị là A Duy Việt Trí Bồ tát. Chỉ cần thấy A Di Đà Phật, sẽ được đãi ngộ như A Duy Việt Trí Bồ tát, quý vị bèn đạt được. Vì thế, quý vị chứng đắc A Duy Việt Trí đương nhiên là rất tốt, phổ độ chúng sinh; còn nếu chưa chứng đắc, nhưng quý vị có tâm đại từ bi, thấy chúng sinh quá khổ, cũng được, quý vị ứng hóa trong lục đạo.
Phật A Di Đà và chư đại Bồ tát sẽ thường chiếu cố quý vị. Thật sự chứng đắc A Duy Việt Trí trong thế giới Cực Lạc. A Duy Việt Trí viên chứng ba thứ Bất Thoái, chính là hàng Sơ Trụ Bồ tát trong Viên giáo như trong kinh Hoa Nghiêm đã giảng. Người ấy ứng hóa trong lục đạo có bị mê hay không? Người ấy sẽ chẳng mê. Vì sao? Đã kiến tính, minh tâm kiến tính thì làm sao có thể bị thoái chuyển cho được? Chẳng có lẽ nào! Bồ tát như thế nào sẽ mê? Trong mười pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật trong mười pháp giới, tứ thánh pháp giới ứng hóa trong lục đạo sẽ bị mê khi cách ấm, chứ Pháp thân Bồ tát chẳng bị.
Hàng Bồ tát trong mười pháp giới chỉ có Vị Bất Thoái là Bất thoái chuyển, còn Hạnh và Niệm vẫn còn. Đạt được minh tâm kiến tính, thoát ly mười pháp giới, chứng đắc Sơ Trụ của Viên giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo, sẽ chẳng thoái chuyển. Trong địa vị ấy, chư Phật Như Lai vẫn gia trì người ấy, tăng tấn trí tuệ và đạo lực cho người ấy, giúp đỡ người ấy, người ấy sẽ thành tựu công đức giáo hóa chúng sinh trong ấy.
Tiếp theo đó là rút gọn lại phần trên thành bốn câu nói của Triệt Ngộ đại sư. “Ước chi, tắc vi Ngẫu Ích đại sư sở xướng chi tín nguyện trì danh” (rút gọn lại sẽ chính là “tín nguyện trì danh” như Ngẫu Ích đại sư đề xướng). Ngẫu Ích đại sư nói “tín nguyện trì danh” được lão pháp sư Ấn Công, tức Ấn Quang đại sư là vị tổ sư thứ mười ba của Tịnh Tông chúng ta, thọ trì suốt đời!
Quý vị đọc Văn Sao thấy Ngài thường dạy người khác tín nguyện trì danh, cầu sinh Tịnh Độ. Lão nhân gia, truyền tâm, truyền pháp gồm mười sáu từ: “Đôn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, tín nguyện trì danh, cầu sinh Tịnh Độ” (vẹn hết luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, tín nguyện trì danh, cầu sinh Tịnh Độ).
Suốt đời tổ Ấn Quang hành trì mười sáu từ ấy, mười sáu từ ấy; nói rất thấu triệt. “Di Đà Yếu Giải dĩ ‘tín nguyện trì danh’ vi Tông” (sách Di Đà Yếu Giải lấy “tín nguyện trì danh” làm Tông). Trong phần Minh Tông Luận Dụng của sách A Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã dùng “tín nguyện trì danh” làm Tông, vì kinh Di Đà và kinh này là cùng một bộ, Đại Bổn và Tiểu Bổn, nên nguyên tắc chỉ đạo tương đồng.
Tiếp theo đó: “Tịnh vân: Tín nguyện trì danh vi nhất kinh yếu chỉ” (Lại còn nói, tín nguyện trì danh là ý chỉ chính yếu của bộ kinh). Những câu này đều do Ngẫu Ích đại sư nói. “Tín nguyện vi tuệ hạnh, trì danh vi hành hạnh, đắc sinh dữ phủ, toàn do tín nguyện chi hữu vô; phẩm vị cao hạ, toàn do trì danh thâm thiển” (Tín nguyện là tuệ hạnh, trì danh là hành hạnh, được vãng sinh hay không toàn là do có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn).
Hai câu này nói rất tuyệt! Đấy là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao trong Tịnh Tông. “Cố tuệ hạnh vi tiền đạo, hành hạnh vi chính tu” (do vậy, tuệ hạnh để dẫn đường, hành hạnh là hạnh chính yếu phải tu tập). Tín nguyện thì như trong khi giảng giải kinh Di Đà, chúng tôi đã giảng câu: “Chẳng thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sinh về cõi ấy”. Thiện căn là gì? Thiện căn là có thể tin, có thể hiểu, đấy là thiện căn. Phước đức là gì? Phước đức là có thể niệm, quý vị thật sự hành, thật sự trì danh. Nhân duyên là hoàn cảnh trợ duyên bên ngoài, quý vị gặp gỡ pháp môn này, gặp những thiện tri thức tu học pháp môn này, họ giúp đỡ quý vị, đấy là ngoại duyên.
Trọn đủ ba thứ thiện căn, phước đức, nhân duyên này, quyết định được vãng sinh. Ba thứ ấy, thiếu một thứ nào, cũng đều chẳng được! Quý vị có phước đức, có nhân duyên, nhưng thiếu thiện căn, gặp pháp môn này sẽ như thế nào? Chẳng tin tưởng, mà cũng không có cách nào lý giải; vì thế, ý nguyện niệm Phật cầu vãng sinh chẳng dấy lên. Nếu không có phước đức, quý vị có thể tin và hiểu, nhưng không hành được, chẳng chống nổi tiếng tăm, lợi dưỡng trước mắt dụ dỗ, mê hoặc.
Chẳng phải là quý vị không hiểu, nhưng sức dụ dỗ, mê hoặc quá mạnh, biết rõ mà vẫn cố phạm, kẻ như vậy rất nhiều! Vì vậy, tổ Ấn Quang suốt đời đề xướng giáo dục nhân quả, hết sức có lý! Hiểu nhân quả, sẽ biết vấn đề sinh tử đúng là chuyện lớn! Đời đời kiếp kiếp mê hoặc, điên đảo làm chuyện ấy, kết bao nhiêu oan nghiệp với hết thảy chúng sinh. Thật sự hiểu rõ ràng, minh bạch, hiểu rành rẽ đạo lý và chân tướng sự thật của nhân quả, thật sự giác ngộ, sẽ không làm nữa, hạ quyết tâm chẳng làm nữa, trong đời này ta nhất định phải thoát lục đạo, ra khỏi mười pháp giới. Đó là sức mạnh của nhân quả, vậy thì quý vị thật sự làm.
Thật sự làm là đại phước đức, vô lượng phước đức. Hành hạnh là chính tu, niệm niệm chẳng lìa A Di Đà Phật, nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật, tương ứng với A Di Đà Phật. “Như mục túc tịnh vận” (như mắt và chân cùng vận dụng), đây là nói tỷ dụ, dễ hiểu, ta thấy đường, ta liền bước một bước.
Lại nói: “Thâm tín phát nguyện, tức Vô Thượng Bồ đề. Hợp thử tín nguyện, đích vi Tịnh Độ chỉ nam, do thử nhi chấp trì danh hiệu, nãi vi Chính Hạnh” (Tin sâu, phát nguyện, tức là Vô Thượng Bồ đề. Hợp tín và nguyện lại, sẽ đích xác là kim chỉ nam cho Tịnh Độ. Do những điều ấy, chấp trì danh hiệu, chính là Chính Hạnh).
Ngẫu Ích đại sư nói mấy câu này rất hay! Trong Chính Hạnh còn có điều kiện, phải niệm như thế nào? Trong câu Phật hiệu ấy trọn đủ “thâm tín, phát nguyện, phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ”.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành; nếu đã thành Phật đạo, quý vị hãy nghĩ xem, độ chúng sinh, đoạn phiền não, học pháp môn chẳng phải đều gộp trong ấy hay sao? Bốn câu Tứ Hoằng Thệ Nguyện; mỗi câu sau sâu hơn câu trước. Hễ có điều thứ nhất, ắt có điều thứ hai. Có điều thứ hai, nhất định phải có điều thứ nhất. Có điều cuối cùng thì ba điều trước đó nhất định phải trọn đủ; vì thế, nó là viên mãn. Do vậy, “tin sâu, phát nguyện” là vô thượng Bồ đề. “Hợp thử tín nguyện” là chỉ nam của Tịnh Độ, nương theo đó chấp trì danh hiệu là Chính Hạnh. Ngẫu Ích đại sư nói: Đầy đủ những điều kiện này mới là Chính Hạnh thật sự. “Đại Bổn A Di Đà Kinh” là kinh Vô Lượng Thọ, “diệc dĩ phát Bồ đề nguyện vi yếu, chính dữ thử đồng” (cũng coi phát Bồ đề nguyện là trọng yếu, hoàn toàn tương đồng với điều này).
Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười tám là chấp trì danh hiệu, nguyện thứ mười chín là “phát Bồ đề tâm” và “vãng sinh Tịnh Độ đều là A Duy Việt Trí Bồ tát”. Câu này cũng nhằm nói tới nguyện thứ mười chín. “Khả kiến tín nguyện trì danh dữ phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, chí thị đồng chỉ” (có thể thấy tín nguyện trì danh và phát Bồ đề tâm, một bề chuyên niệm, đúng là cùng một tông chỉ), có cùng một tông chỉ! Ngẫu Ích đại sư nói bốn từ, kinh Vô Lượng Thọ nói tám từ, nhưng có cùng một ý nghĩa, chỉ thú hoàn toàn tương đồng. “Ngẫu Ích đại sư dĩ tín nguyện trì danh vi Tiểu Bổn chi Tông. Đại Tiểu lưỡng bổn, tông chỉ ưng đồng. Cố kim viết” (Ngẫu Ích đại sư coi “tín nguyện trì danh” là Tông của Tiểu Bổn. Tông chỉ của hai bản Đại và Tiểu phải giống nhau, nên nay nói), nay chúng ta đang học tập kinh Vô Lượng Thọ, “phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, vi Đại Bổn chi Tông. Chí thị tuân phụng Ngẫu Ích đại sư chi thùy giáo dã” (phát Bồ đề tâm, một bề chuyên niệm là Tông của Đại Bổn, đấy chính là tuân phụng lời dạy của Ngẫu Ích đại sư vậy), hoàn toàn tương ứng với lời dạy của Ngẫu Ích đại sư.
Đoạn tiếp theo lại giải thích “nhất hướng chuyên niệm”. “Nhất Hướng nhị tự chữ hữu sổ nghĩa” (hai chữ Nhất Hướng có mấy nghĩa sau :)
- Thứ nhất, “triều hướng nhất phương tiền tấn” (hướng theo một phương để tiến lên); “nhất phương” là Tây Phương, mục đích là thế giới Cực Lạc thế giới, chữ Nhất Hướng có ý nghĩa thứ nhất như vậy.
- Thứ hai, “thiên hướng nhất biên” (ngả theo một bên), quyết định chẳng lấy Đông, Nam, Bắc, chuyên lấy Tây Phương, cũng chẳng lấy phía trên, hay phía dưới, riêng lấy Tây Phương, cũng là cùng một ý nghĩa với “triều hướng nhất phương” trong đoạn trên.
- Thứ ba là “nhất vị” (một vị).
- Thứ tư là “tổng thị” (luôn là).
- Thứ năm là “nhất đoạn thời gian” (một khoảng thời gian). Ý nghĩa thứ năm là “nhất đoạn thời gian” cũng nói rất hay, tức là nói khoảng thời gian hiện tiền này, chẳng nói tới quá khứ, mà cũng không nói tới tương lai. Trong khoảng thời gian hiện tiền này, chúng ta nhất định phải hoàn thành, phải đạt mục đích. “Tổng thị” nghĩa là khởi tâm động niệm luôn là A Di Đà Phật, quyết định chẳng có tạp niệm. “Nhất vị” và “tổng thị” mang ý nghĩa này.
“Cố tri nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tức chuyên hằng y chỉ trì danh niệm Phật pháp môn chi nghĩa dã” (nên biết một bề chuyên niệm Phật A Di Đà chính là ý nghĩa chuyên luôn luôn y chỉ pháp môn trì danh niệm Phật). Chúng ta hãy nên buông xuống vạn duyên. Không chỉ buông xuống vạn duyên, mà ngay cả Phật pháp cũng buông xuống.
Liên Trì đại sư đã nêu gương cho chúng ta, lão nhân gia nói: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ” (Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ), Ngài không làm nữa! “Bát vạn tứ thiên hạnh, nhiêu dữ biệt nhân hành” (tám vạn bốn ngàn hạnh, dành cho kẻ khác hành). Quý vị thích học pháp môn ấy thì học, lão nhân gia cung kính tán thán. Chính Ngài thì sao? Chính Ngài chuyên niệm Di Đà thật sự.
Có một năm, do thuở trước Ngài trụ tại Hàng Châu, tôi đến thăm đạo tràng của Ngài; hiện thời nơi ấy mở quán trà, quả thật, chúng tôi thấy như vậy rất khó chịu! Trong Đại Hùng Bảo Điện, toàn bộ tượng Phật chẳng còn nữa, biến thành quán trà, đạo tràng của tổ sư đấy nhé! Đại điện chùa ấy có tên là Thần Vận Điện; vì thế, chúng tôi nghĩ đến chuyện ấy cũng rất khó chịu! Có một năm, Hàng Châu bị hạn hán vô cùng nghiêm trọng, quan Thái Thú, thuở ấy là Thái Thú, hiện thời là Thị trưởng, đến cầu xin lão hòa thượng: “Mong lão hòa thượng hãy phát tâm từ bi cầu mưa dứt hạn hán”. Trong Phật môn, quý vị thấy bản Đại Khóa Tụng có nghi thức cầu mưa, đó là cầu long vương. Liên Trì đại sư bảo mọi người: “Ta không biết nghi quy ấy, ta chỉ biết niệm Phật. Chúng ta cùng nhau niệm Phật là được rồi”. Ngài dẫn cả đống người, gõ mõ niệm A Di Đà Phật, bước trên bờ ruộng, quả thật, Ngài đi tới đâu, mưa tuôn tới đó, thật sự linh ứng! Dùng một câu A Di Đà Phật, nghi thức gì cũng đều chẳng có, hễ thành ắt linh mà!
Trong truyện ký của Liên Trì đại sư có chép câu chuyện như thế. Một câu Phật A Di Đà vô cùng hữu dụng, chỉ cần thành tâm, thành ý, chắc chắn chẳng hoài nghi, nhất định chẳng xen tạp, sẽ có cảm ứng. Liên Trì đại sư dùng câu Phật hiệu Phật A Di Đà để cầu mưa, bèn cầu được!
Hiện thời, hình như là năm trước, tại huyện Khánh Vân, tỉnh Sơn Đông, cư sĩ Tề Tố Bình dựng chùa ở nơi ấy, tức Kim Sơn Tự. Lúc ấy, ở nơi đó, bốn trăm mẫu ruộng tiểu mạch (lúa mì) sắp thu hoạch, bỗng nhiên bị nạn châu chấu. Chuyện này phiền lắm, tiểu mạch sẽ bị châu chấu ăn sạch. Nông dân vùng phụ cận bảo bà ta phải phun thuốc sát trùng. Tề cư sĩ gọi điện thoại hỏi tôi, phun thuốc sát trùng là sát sinh!
Tôi nói: “Bà hãy suy nghĩ xem nên xử lý ra sao!”. Cuối cùng, bà ta nghĩ thông suốt, chẳng sát sinh, trọn chẳng phun thuốc sát trùng, thà đem hơn bốn trăm mẫu tiểu mạch để cho châu chấu ăn, cúng dường chúng nó, cũng chẳng sát hại chúng nó. Dấy lên ý niệm ấy, bà ta dẫn một đám người vào ruộng lúa mạch niệm A Di Đà Phật, đi nhiễu quanh ruộng niệm Phật. Trời tuôn một trận mưa nhỏ, sau khi một trận gió quét qua, chẳng còn một con trùng gây hại nào! Những nông dân vùng phụ cận rất kinh ngạc, vì sao không có? Thật vậy! Chẳng tìm được con nào, bội thu! Nếu bà ta phun thuốc trừ sâu, sẽ kết oán cùng những chúng sinh ấy, phiền phức to lớn.
Bà ta đã phát tâm từ bi, một con châu chấu nhỏ cũng chẳng giết. Bà ta cũng không nghĩ chúng nó sẽ rời đi, kết quả là những con tiểu trùng ấy thật sự chẳng còn, bà ta kể cho tôi nghe chuyện này.
Tiếp theo, sách viết: “Nhất hướng chuyên niệm, bổn ư Di Đà bản nguyện đệ thập bát, thập niệm tất sinh chi đại nguyện” (Một mực chuyên niệm vốn là nguyện thứ mười tám trong bản nguyện Di Đà, tức là đại nguyện mười niệm ắt được vãng sinh). Câu này nói tới nguyện thứ mười tám “Di Đà nhân trung phát thập niệm tất sinh đại nguyện” (trong lúc tu nhân, đức Di Đà đã phát ra đại nguyện “mười niệm ắt được vãng sinh”). Đó là nói tới lúc lâm chung, nói về hạng người nào? Suốt đời chẳng nghe Phật pháp, chẳng có tín ngưỡng tôn giáo, khi lâm chung, đầu óc tỉnh táo, chẳng mê hoặc tí nào, gặp gỡ thiện hữu, gặp một người niệm Phật, khuyên người ấy niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, vừa nghe liền tin tưởng, vừa nghe liền bằng lòng, thật sự làm, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, mười niệm bèn vãng sinh.
Mười niệm ấy là tịnh niệm tiếp nối, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn, mười tiếng! Đó là bản nguyện của A Di Đà Phật. Ngẫu Ích đại sư cũng dựa vào nguyện này mà bảo: “Có thể vãng sinh hay không được quyết định bởi có tín nguyện hay không?”. Người ấy thật sự tin, nguyện thiết tha, trì danh niệm Phật, tịnh niệm tiếp nối, bất quá thời gian rất ngắn mà có thể thành công, là do tương ứng với bản nguyện của A Di Đà Phật.
“Cố hành nhân phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, tất đắc vãng sinh Tịnh Độ, viên chứng Bất Thoái chi diệu quả” (cho nên hành nhân phát Bồ đề tâm, một mực chuyên niệm, ắt được vãng sinh Tịnh Độ, chứng trọn vẹn diệu quả Bất Thoái). Viên chứng ba thứ Bất Thoái: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái.
“Kinh trung thượng bối, trung bối, cập hạ bối vãng sinh chi nhân, giai do ư phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, nhi vãng sinh Cực Lạc Tịnh Độ. Cái dĩ quả giác nhân tâm, cứu cánh phương tiện, toàn hiển Di Đà Nhất Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, bất khả tư nghị chi oai thần công đức” (Người vãng sinh thuộc bậc thượng, bậc trung và bậc hạ trong kinh đều do phát Bồ đề tâm, một mực chuyên niệm Phật A Di Đà mà vãng sinh Cực Lạc Tịnh Độ. Ấy là vì dùng quả giác để làm cái tâm tu nhân, phương tiện rốt ráo, hiển lộ toàn vẹn biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Đà. Sáu chữ hồng danh có oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn).
Qua những câu này, cụ Hoàng Niệm Tổ đã buốt lòng rát miệng khuyên dạy chúng ta, chúng ta đã trọn đủ duyên, chỉ e thiện căn và phước đức còn thiếu kém đôi chút. Thiếu kém đôi chút chẳng sao, trong một đời này, chúng ta có thể bổ khuyết. Nói gần gũi hơn tí nữa thì hiện nay ta bù đắp cho đủ, nguyện vọng cầu vãng sinh sẽ được thỏa. Nếu chẳng bù đắp cho đủ, cả đời này rất có thể sẽ lỡ làng! Trong tình hình giống như thế, bản thân chúng ta hãy nên khẳng định đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, chúng ta đã từng nhiều lần gặp gỡ pháp môn này, vì sao chẳng vãng sinh? Là vì chẳng bù đắp cho đủ tín nguyện bị khiếm khuyết đôi chút, cho nên vẫn phải lưu chuyển theo nghiệp.
Ta ưa thích pháp môn này, nhưng pháp môn nọ rất trọng yếu, vẫn tu tập thêm pháp môn ấy, chẳng giống như cổ đại đức. Cổ đại đức phải đạt được Tịnh Độ trước rồi mới học thêm pháp khác. Giống như Giao Quang đại sư, Ngài đã chứng đắc Tịnh Độ, khi lâm chung, Phật A Di Đà tới tiếp dẫn, Ngài đã đạt được, tức là đã đạt được Tịnh Độ, nhưng Ngài nghĩ chú giải kinh Lăng Nghiêm có vấn đề. Những chú giải của cổ đại đức chưa phải là ý nghĩa của Phật, nên xin Phật A Di Đà cho hoãn lại để con viết xong xuôi bộ chú giải này. Phật A Di Đà chấp thuận. Quý vị thấy Ngài đã nắm chắc Tịnh Độ, cũng có nghĩa là đối với sự vãng sinh của chính mình chẳng còn bị trở ngại, có thể tự tại trụ trong thế gian này một thời gian dài hay ngắn: Muốn đi sớm một ngày bèn được, có thể đi. Muốn giúp đỡ chúng sinh, ở lại mấy năm cũng chẳng trở ngại, do có công phu ấy bèn được!
Nếu không có công phu ấy, chúng ta phải nhớ: Chúng ta coi thế giới Cực Lạc là đại sự hàng đầu. Vì sao? Tới thế giới Cực Lạc bèn thành Phật. Tổ sư đại đức bảo chúng ta: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (chỉ thấy Phật Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ). “Ngộ” ấy là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính, kiến tính thành Phật, chẳng phải là ngộ tầm thường!
Sau khi thật sự triệt ngộ, sẽ giống như Phật, thực hiện nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, quý vị có thể thật sự làm được, đối với chính mình, độ chúng sinh chẳng bị trở ngại mảy may nào. Chúng sinh có cảm, quý vị bèn có ứng, cảm ứng đạo giao trọn chẳng trái thời!
Từ sách Hoàn Nguyên Quán, chúng ta thấy ý niệm ấy dấy lên sẽ trọn khắp pháp giới, ý niệm cảm của chúng ta sẽ trọn khắp pháp giới. Phật, Bồ tát trọn pháp giới hư không giới, những vị Bồ tát ấy là Pháp thân Bồ tát, sẽ lập tức ứng. Có khi chúng ta cầu mà chẳng có ứng, có phải là chẳng linh hay chăng? Chẳng phải. Lúc tôi mới học Phật đã có những nghi vấn ấy. Chương Gia đại sư giải thích: Chẳng phải là không có ứng. Có ứng, nhưng quý vị chẳng cảm nhận được, do nguyên nhân nào? Chính quý vị có nghiệp chướng. Chúng ta cảm, ví như làn sóng của chúng ta gởi tới Phật, Bồ tát. Phật, Bồ tát có sự hồi ứng; khi sự hồi ứng trở về bên ta, do ta có nghiệp chướng, nên chính mình chẳng cảm nhận được! Hễ nghiệp chướng tiêu trừ, sẽ có ứng vô cùng rõ rệt. “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, Sự Lý cảm ứng cũng rất sâu, đức Phật dạy có bốn thứ.
Vì vậy, học Phật, niệm Phật cũng là tiêu nghiệp chướng. Kinh dạy niệm Phật A Di Đà một tiếng, tiêu trừ trọng tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử, mới biết công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn. Cổ đại đức thường nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. Vì sao chúng ta niệm Phật chẳng tiêu nghiệp chướng? Tâm chúng ta không thanh tịnh, chưa đoạn nghi lự, cho nên có hoài nghi, xen tạp, lại còn thường xuyên gián đoạn. Vì thế, Phật, Bồ tát ứng, chúng ta rất khó cảm nhận.
Hiểu rõ chân tướng sự thật này, sau đấy, chúng ta mới biết sám trừ nghiệp chướng là một đại sự rất trọng yếu. Sám hối nghiệp chướng; sám hối bằng cách nào? Vẫn là một câu cũ rích: “Buông xuống!”. Đừng chứa trong lòng những thứ tạp nhạp, tâm địa khôi phục thanh tịnh, sám trừ nghiệp chướng.
Nghiệp chướng chẳng trừ, tâm quý vị làm sao có thể thanh tịnh được? Đời trước, đời này, tập khí nghiệp chướng, “đời trước” là tập khí, thảy đều phải buông xuống. Nói cách khác, chớ nên nghĩ tới nữa! Những chuyện ấy không chỉ là chuyện quá khứ, mà còn là chuyện đã qua lâu rồi, phải nhớ kỹ lời Phật dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Đã là hư vọng, quý vị nghĩ tới nó để làm gì? Quý vị nhớ tới nó để làm gì? Quý vị nghĩ tới nó sẽ lại tạo nghiệp. Quý vị nhớ tới nó cũng tạo nghiệp! Thân khẩu chẳng tạo nghiệp, nhưng ý tạo nghiệp. Ý nghiệp chẳng ngừng!
Thân khẩu tạo nghiệp còn có lúc gián đoạn, khi ngủ, thân khẩu chẳng tạo nghiệp, nhưng ý vẫn tạo nghiệp, ý niệm của quý vị chẳng ngừng. Nói cách khác, quý vị vẫn đúng là “trong tâm vướng mắc quá nhiều, không bỏ xuống được”. Hiện thời phải biết: Nếu muốn liễu sinh tử, nếu muốn vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi, hãy hết sức hâm mộ Phật, Bồ tát, mong mỏi ta cũng có thể làm Phật, Bồ tát, quý vị sẽ thật sự buông xuống. Quý vị chẳng thể làm Phật là vì chưa buông xuống; hễ buông xuống sẽ làm được!
Pháp môn này là do Phật A Di Đà dùng tâm quả giác làm phương tiện rốt ráo dạy bảo chúng ta, chẳng giống các pháp môn thông thường. Pháp môn thông thường là lấy cái tâm tu nhân để cầu sự giác ngộ nơi quả địa. Vì thế, những pháp môn ấy theo từng giai đoạn, tiến lên cao hơn theo từng giai đoạn một, từ Thập Tín tới Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. Tiến lên cao như thế, dùng cái tâm tu nhân để chứng quả giác. Pháp môn này chẳng giống như vậy, mà là quả giác. Danh hiệu Phật A Di Đà là quả giác, lấy quả giác tâm làm nhân địa tâm (cái tâm trong lúc tu nhân), nhân và quả chẳng hai. Cho nên chúng ta niệm câu “đức hiệu” Phật A Di Đà này sẽ thành A Di Đà Phật. Chỗ y cứ thật sự là dựa trên căn cứ nào? Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, dựa trên điều này!
Tây Phương Tịnh Độ của Phật A Di Đà do đâu mà có? Do tự tính sinh ra, hiện ra! Nay chúng ta dùng tự tính để niệm Phật, cho nên vượt khỏi những tầng lớp ấy, chẳng cần đến bốn mươi mốt tầng cấp, đốn siêu, thành tựu.
“Toàn hiển Di Đà Nhất Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, bất khả tư nghị chi oai thần, công đức” (Hiển lộ trọn vẹn biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng danh có oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn). Chúng ta phải thật sự tin vào những Lý Sự này. Vì thế, pháp môn này gọi là “pháp khó tin”, quý vị không tin, người khác không tin, đó là hiện tượng bình thường.
Nếu không, làm sao có thể gọi là “pháp khó tin?”. Bồ tát khó tin, Thanh Văn, Duyên Giác khó tin. Có lúc phàm phu lại tin tưởng; vậy thì phàm phu vượt trỗi Thanh Văn, Bồ tát hay chăng? Đương nhiên chẳng thể vượt trỗi được! Vì sao phàm phu có thể tin? Trong đời quá khứ, đã từng học pháp môn này; trong A Lại Da thức có chủng tử Tịnh Độ, đời này gặp gỡ, khiến cho chủng tử trong quá khứ hiện hành.
Nếu chẳng có nhân ấy, sẽ chẳng thể nào tin tưởng. Bất luận sơ học gian nan ra sao, học mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, sẽ thật sự tin. Đó là gì? Chủng tử trong A Lại Da thức hiện hành. Nếu đã học tập từ những kiếp lâu xa, chủng tử sẽ gieo rất sâu trong A Lại Da thức. Duyên thù thắng, có bạn lành, có thuận cảnh giúp đỡ quý vị. Chủng tử trong đời quá khứ nhất định sẽ hiện hành, cho nên tiếp nhận. Có khi tới lúc lâm chung, sự tiếp nhận ấy mới tỏ lộ, nhưng hễ tiếp nhận là được rồi, lâm chung mười niệm bèn vãng sinh.
Người ấy vãng sinh trong phẩm vị nào? Nói nhất quyết là Hạ Hạ phẩm thì cũng rất khó nói. Hạ Hạ phẩm là đa số, nhưng cũng có người là Thượng Thượng phẩm, tuy là thiểu số. Điều này liên quan đến sự tu học trong đời quá khứ, tuyệt đối chẳng phải là thành tựu trong một đời này!
“Hựu nhất hướng chuyên niệm giả, cổ vân: Thượng tận hình thọ, hạ chí thập niệm. Thượng tận hình thọ giả, chỉ tùng phát tâm niệm Phật chi nhật, chung thân niệm Phật” (lại nữa, đối với chuyện một bề niệm Phật, cổ nhân nói: “Bậc thượng là suốt đời, bậc hạ là chỉ mười niệm”. Bậc thượng thọ trì suốt đời là kể từ ngày phát tâm niệm Phật, bèn suốt đời niệm Phật). Kể từ khi hiểu rõ ràng, minh bạch Tịnh Tông, bèn hoàn toàn tiếp nhận, bắt đầu thật thà niệm Phật, hễ sống một ngày bèn niệm một ngày, đó gọi là “tận hình thọ”.
“Trực chí mạng chung chi tối hậu nhất niệm, thử nãi kỳ thượng giả. Kỳ hạ giả, vị năng cập thử, hoặc nhân chướng trọng, hoặc dĩ sự phồn, vị hạ đa niệm” (Mãi cho đến một niệm cuối cùng lúc lâm chung, đó là bậc thượng. Còn bậc hạ thì chưa được như vậy, hoặc vì chướng nặng, hoặc do lắm việc, chẳng rảnh rỗi để niệm nhiều). Đây là nói tới phước đức.
Chư vị nhất định phải hiểu phước đức thật sự là gì? Niệm Phật là phước đức thật sự. Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối Phật hiệu chẳng dứt, đó là người đại phước đức! Vì sao nói là người đại phước đức? Vãng sinh Cực Lạc thế giới chẳng phải là phước đức tuyệt diệu ư? Chẳng phải là đại phước đức thì làm sao quý vị có thể vãng sinh?
Suốt ngày từ sáng đến tối niệm câu Phật hiệu này, quý vị càng niệm, phẩm vị càng cao! Như trong Thập Lục Quán Kinh đã nói, trong tương lai quý vị vãng sinh, hoa sen càng ngày càng to! Các thứ trong thế giới Cực Lạc đều giống nhau, chỉ có hoa sen khác biệt. Vì sao? Công phu niệm Phật của mỗi cá nhân khác nhau, nên hoa sen lớn hay nhỏ khác nhau, ánh sáng và màu sắc của mỗi hoa sen khác biệt. Do vậy, người trong thế giới Cực Lạc thấy rất rõ ràng, người trong hoa sen ấy còn chưa sinh về, nhưng đã thấy hoa sen trước, tức là thấy hoa sen trong ao bảy báu, thấy hoa ấy, liền biết công phu niệm Phật của người ấy khá lắm, hay công phu niệm Phật của người ấy dở hơn một chút, họ đều có thể thấy rõ ràng từ nơi ấy.
Hoa sen to, ánh sáng và màu sắc tốt đẹp, chắc chắn người ấy đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật rất nhanh, vận dụng công phu sâu xa mà!
Trong kinh, đức Phật dạy: Tu hành một ngày trong thế giới Sa Bà bằng tu hành một trăm năm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thế giới này khá lắm, giúp cho chúng ta thành tựu rất nhanh, còn sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành tựu thong thả, ở nơi đây rất nhanh.
Cái hay của thế giới Tây Phương là thọ mạng dài, vô lượng thọ, chẳng bị mê khi cách ấm, thành tựu trong một đời. Thế gian này sóng gió quá lớn, thoạt chìm, thoạt nổi đời đời kiếp kiếp, cho nên khổ nhiều, vui ít. Nhưng nếu tu hành thì nơi đây đúng là tu hành tốt đẹp, thời thời, khắc khắc, từng phút, từng giây đều khảo nghiệm công phu của quý vị.
Quyết định chẳng sinh phiền não, trong thuận cảnh chẳng tham luyến, phải đoạn cái tâm tham luyến ấy, trong nghịch cảnh chẳng oán hận. Nói cách khác, trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, bất luận hoàn cảnh nhân sự với nhau, hay hoàn cảnh vật chất. Tu gì? Tu thanh tịnh, bình đẳng. Giác chẳng cần nhắc tới, hễ thanh tịnh bình đẳng sẽ tự nhiên giác. Đạo lý này tương ứng với “chuyển thức thành trí” của Pháp Tướng Tông.
Tướng Tông nói “chuyển thức thành trí” là “lục, thất nhân thượng chuyển. Ngũ, bát quả thượng chuyển” (chuyển thức thứ sáu và thứ bảy trong khi tu nhân; chuyển năm thức trước và thức thứ tám nơi quả). Chuyển thức thứ sáu, tức Ý Thức, thành Diệu Quán Sát Trí, đó là tâm thanh tịnh. Chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tính Trí, tức là thức thứ bảy chẳng còn phân biệt, bình đẳng sẽ hiện tiền. Giác là chuyển nơi quả. Do vậy, chúng ta phải coi trọng tu thanh tịnh và bình đẳng; nghĩa là thức thứ sáu và thức thứ bảy đã chuyển, thức thứ tám và năm thức trước sẽ chuyển theo. Chúng ta dùng phương pháp gì để chuyển? Dùng một câu Phật hiệu này!
Trong thuận cảnh mới có một tí tham niệm dấy lên, bèn A Di Đà Phật, chuyển niệm ấy thành A Di Đà Phật. Trong nghịch cảnh mới có một tí oán hận, bèn A Di Đà Phật, chuyển toàn bộ thành A Di Đà Phật. Cách này tuyệt diệu! Vì thế, tổ sư đại đức thường nói “ám hợp đạo diệu” (thầm hợp đạo mầu), chẳng thấy chuyển, nhưng thật sự chuyển biến. Câu Phật hiệu này, câu nọ tiếp câu kia chẳng để gián đoạn. Trong mỗi tiếng Phật hiệu chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, công phu thuần thục!
Tiếp đó, sách viết: “Tắc ư mỗi nhật hành Thập Niệm pháp, diệc phù ư nhất hướng chuyên niệm” (Dù mỗi ngày hành pháp Thập Niệm, cũng phù hợp tông chỉ một mực chuyên niệm). Pháp Thập Niệm do tổ sư đại đức nói với kẻ gặp lúc công việc bận bịu, nhiều việc quá, không có thời gian để niệm Phật, cũng chẳng có thời gian để tụng niệm công khóa sáng tối, quý vị bèn dùng cách Thập Niệm.
Buổi sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, súc miệng, hướng về tượng Phật, nếu không có tượng Phật, hãy ngoảnh mặt về phương Tây, cứ hết một hơi là một niệm. Một niệm chẳng câu nệ nhiều hay ít, cứ niệm một hơi A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, hết một hơi là một niệm. Niệm mười hơi, suốt đời chẳng gián đoạn, cũng gọi là “nhất hướng chuyên niệm”. Khi tôi ở Tân Gia Ba, tôi dạy các đồng học một cách Thập Niệm khác, tức là thập thanh Phật hiệu. Dùng pháp Thập Niệm này, so về mặt thời gian càng dễ làm hơn. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, niệm mười câu như vậy, mỗi ngày niệm chín lần. Buổi sáng thức dậy, rửa mặt, súc miệng, niệm một lần; buổi tối trước khi ngủ niệm một lần. Đó là hai lần. Mỗi ngày khi ăn ba bữa cơm đều niệm Phật hiệu mười câu rồi mới ăn, đó là ba lần. Do vậy, ta có năm lần rồi!
Quý vị buổi sáng đi làm, buổi chiều tan sở, trước khi làm việc, ngồi nơi bàn giấy niệm mười câu rồi mới làm. Khi tan sở, sau khi làm xong công việc, niệm Phật hiệu mười câu rồi mới rời khỏi chỗ.
Buổi sáng, buổi chiều thành bốn lần, tổng cộng chín lần. Niệm đâu nghĩ tại đó, tuy rất đơn giản, thời gian chỉ một phút là xong, nhưng hết sức có hiệu quả. Vì sao? Thời thời khắc khắc quý vị đều nghĩ tới Phật. Dùng cách này làm “định khóa” (công khóa nhất định), những khi khác là “tán khóa”. Tán khóa là khi nào quý vị nghĩ đến, bèn niệm khi đó; còn cách này mỗi ngày chín lần, mỗi lần niệm mười câu Phật hiệu, lấy nó làm định khóa, thật sự chẳng tốn thời gian, chẳng lỡ làng công việc. Pháp môn này quả thật vô cùng thuận tiện, phù hợp với “nhất hướng chuyên niệm”.
“Cánh hạ tắc như Quán Kinh sở thuyết ác nghịch chi nhân, lâm dục mạng chung, đắc linh thánh giáo, chí tâm hối cải, thập niệm xưng danh, diệc đắc vãng sinh,cố vân thập niệm tất sinh dã” (thấp hơn nữa là như Quán Kinh nói kẻ ác nghịch lúc sắp mất mạng, được nghe thánh giáo, chí tâm hối cải, xưng danh mười tiếng, cũng được vãng sinh, nên nói là “mười niệm ắt vãng sinh”).
Điều này được nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Kinh nói kẻ tội nghiệp Thập Ác, Ngũ Nghịch sẽ đọa A Tỳ địa ngục, đại ác chẳng thể tha, kẻ ấy khi lâm chung, nếu gặp được một người niệm Phật khuyên nên niệm Phật, bèn chân tâm hối cải. Có thể chân tâm hối cải là do thiện căn trong đời quá khứ hiện tiền, cả đời này chẳng tu điều lành nào.
Kẻ Thập Ác, Ngũ Nghịch, lâm chung quay đầu, thật sự hối cải, niệm Phật A Di Đà mười tiếng bèn tắt hơi, vẫn có thể vãng sinh. Đây là điều được nói trong nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật. Pháp môn này quá thù thắng. Tiếp đó, lão cư sĩ bảo chúng ta: “Hành giả ưng tri” (hành giả hãy nên biết), hành giả là người niệm Phật, nhất định phải biết. “Nhất hướng chuyên niệm chỉ tùng sơ phát tâm niệm Phật, nhất trực đáo lâm chung tối hậu nhất niệm” (“một mực chuyên niệm” nghĩa là kể từ lúc mới phát tâm niệm Phật thẳng tới một niệm cuối cùng lúc lâm chung), đó gọi là nhất hướng chuyên niệm.
“Nhi kỳ quan kiện thật tại tối hậu” (nhưng mấu chốt quả thật là lúc cuối cùng), quan trọng nhất là lúc quý vị sắp mất, một niệm cuối cùng là Phật A Di Đà thì quý vị mới có thể vãng sinh. Một niệm cuối cùng khi lâm chung phải là A Di Đà Phật! Do vậy, trợ niệm rất trọng yếu. Trọng yếu ở chỗ nào? Trợ niệm là do sợ người ấy trong một niệm cuối cùng sẽ quên sạch, chúng ta dùng phương pháp này để nhắc nhở, khiến cho một niệm cuối cùng của người ấy là A Di Đà Phật, người ấy sẽ chắc chắn vãng sinh.
Chẳng cần biết công phu niệm Phật suốt đời của người ấy ra sao, một niệm cuối cùng rất trọng yếu. Đối với một niệm cuối cùng, người ta thường chẳng thể nắm chắc, nếu tập khí phiền não dấy lên hiện hành, sẽ bỏ lỡ cơ hội này. Niệm Phật suốt đời, tới một niệm cuối cùng, trong lòng có vướng mắc thì hỏng rồi! Những chuyện như vậy chúng tôi đã đích thân trông thấy!
Tiếp đó là nêu tỷ dụ: “Như thượng thuyết ác nghịch chi nhân” (kẻ ác nghịch như vừa mới nói trên đây), đó là kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác. “Thập thanh niệm Phật”, kẻ ấy chỉ niệm mười tiếng. “Đệ nhất thanh thị sơ niệm, đệ thập thanh tắc mạng chung” (Tiếng thứ nhất là niệm đầu tiên, tiếng thứ mười bèn mạng chung), vẫn coi như là “tùng sơ phát tâm trực chí mạng chung quân tại trì danh” (từ sơ phát tâm cho đến khi mạng chung đều luôn trì danh).
Người ấy phước báo quá to, cả đời làm ác, lâm chung gặp được bạn lành, vẫn vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vốn phải đọa lạc A Tỳ địa ngục, quý vị thấy: Đã đưa kẻ đó từ A Tỳ địa ngục đến thế giới Cực Lạc làm Phật. Bởi lẽ, người ấy phù hợp tông chỉ “nhất hướng niệm Phật”. Quá thù thắng!
Chúng ta chớ nên không hiểu điều này. Chuyện này là có, rất khó có, rất hy hữu, nhưng người niệm Phật chúng ta nhất thiết chớ nên có tâm lý cầu may. Hiện thời, ta làm một ít chuyện xấu vẫn chẳng sao; khi lâm chung, ta còn có cách, ta vẫn trở tay kịp, [nghĩ như vậy] là sai rồi!
Khởi lên ý niệm ấy chính là ác niệm khôn sánh, toan kiếm kẽ hở trong bản nguyện của A Di Đà Phật. Đấy là điều quá đáng ghét, chắc chắn chẳng thể nào chấp nhận được! Do vậy, chúng ta chớ nên không biết chuyện này. Con người phải thật thà, phải thành khẩn, chớ nên có một ác niệm. Có ác niệm tức là bất hảo mất rồi!
“Phản chi, như hữu nhân niệm Phật sổ thập niên, hoặc ư tối hậu giai đoạn, khinh thị trì danh nhi cải hành tha pháp, hoặc ư lâm chung bất hân Cực Lạc nhi luyến thế gian, vị năng niệm Phật, thị tắc bất danh nhất hướng chuyên niệm” (ngược lại, như có kẻ niệm Phật mấy chục năm, nhưng trong giai đoạn cuối cùng, lại coi thường pháp trì danh, đổi sang tu phép khác, hoặc lúc lâm chung chẳng ưa thích Cực Lạc, luyến tiếc thế gian, chưa thể niệm Phật, sẽ chẳng thể gọi là “một mực chuyên niệm”).
Chuyện này chúng tôi cũng thấy rất nhiều, có thật; không chỉ có, mà còn rất nhiều! Tới lúc lâm chung, người ấy lưu luyến thế giới này, lưu luyến lớn nhất là tình cảm đối với người thân, đó là tập khí nặng nhất. Vì vậy, trong sách Sức Chung Tu Tri, cổ đại đức đã bảo: Nhằm tiễn người ấy đi vãng sinh, khi tiễn người ấy sắp vãng sinh trong chốc lát, tốt nhất là đừng để người ấy thấy mặt người nhà, quyến thuộc, con cái. Vì sao? Trông thấy sẽ động tâm, hễ động tâm sẽ hỏng chuyện! Vì thế, hãy để cho bạn bè trong nhà Phật, đồng tu niệm Phật tới chăm sóc người ấy, tiễn người ấy vãng sinh.
Sau khi người ấy vãng sinh, người nhà, quyến thuộc mới có thể tiến vào. Hơn nữa, thường là tám tiếng đồng hồ sau khi người ấy đã tắt hơi, người nhà, quyến thuộc mới được bước vào, vì sợ nhiễu loạn trong khi thần thức người ấy đang rời khỏi thân xác. Người thật sự vãng sinh, hễ tắt hơi bèn ra đi, vãng sinh nhanh chóng.
Có người nhờ vào trợ niệm, tuy tắt hơi, nhưng hoàn toàn chẳng đi, linh hồn vẫn còn quanh quẩn bên thân thể. Lúc ấy công đức niệm Phật vô cùng thù thắng, khiến cho người ấy nghe mỗi âm thanh đều là Phật hiệu, cuối cùng cũng theo Phật hiệu ra đi thì tốt lắm!
Phải biết: Niệm Phật đưa thần thức của người đã mất đi vãng sinh rất nhiều. Đúng là có nhiều người vãng sinh nhờ vào trợ niệm. Vì thế, trợ niệm phải đúng pháp. Nếu chẳng đúng pháp sẽ phiền phức rất lớn!
Chúng ta xem đoạn kế tiếp: “Hoặc nghi niệm Phật hà dĩ hữu như thị công đức” (hoặc nghi niệm Phật, niệm Phật làm sao có công đức như thế cho được). Nghi là một căn bản phiền não. Căn bản phiền não gồm sáu thứ, sau tham, sân, si, mạn là nghi, cuối cùng là ác kiến.
Ác kiến là Tư Hoặc, gồm Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, gọi gộp chung là Ác Kiến. Nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ tát, Bồ tát chẳng thể khai ngộ, chẳng thể kiến tính, người niệm Phật chẳng thể vãng sinh đều do phạm phải chữ [Nghi] này.
Đấy chẳng phải là chân tín, do lòng tin không kiên định. Chẳng phải là nói quý vị chẳng có tín tâm, mà là nói quý vị chưa có lòng tin một trăm phần trăm chẳng nghi ngờ! Tín tâm chín mươi chín phần trăm, vẫn còn có một phần nghi. Một phần nghi ấy sẽ là chướng ngại nghiêm trọng, chướng ngại quý vị chẳng thể thành tựu, quý vị nói chuyện này có phiền phức hay chăng?
Trong quá khứ, chúng tôi nghe thầy giảng, cảm thấy rất khó lý giải, thầy đã nêu một thí dụ. Thầy nói thí dụ như cái chén trà này đựng đề hồ, cả một chén đề hồ đầy ắp, đề hồ là thức uống ngon nhất. Trong ấy có một giọt độc dược; do một giọt như vậy, cả chén đề hồ đều biến thành độc dược, quý vị uống một hớp sẽ phải tử vong.
Điều này nói gì vậy? Quý vị có lòng tin chín mươi chín phần trăm, một phần trăm là nghi, đó là một giọt độc dược phá hoại chín mươi chín phần trăm tín tâm của quý vị. Tỷ dụ hay lắm, khiến cho chúng ta thật sự có thể đề cao cảnh giác, chớ nên hoài nghi kinh giáo, chớ nên hoài nghi Phật, Bồ tát, chớ nên hoài nghi thiện căn, phước đức, nhân duyên của chính mình. Có một tí hoài nghi sẽ chướng ngại chính mình thành tựu! Chân tín, quý vị thấy kinh nói đến chân tín nguyện, chân tín, thiết nguyện (lòng tin chân thật, nguyện thiết tha), công đức ấy vô cùng thù thắng.
“Nhân năng niệm sở niệm, giai thị Thật Tướng cố” (vì năng niệm và sở niệm đều là Thật Tướng), cụ Niệm Tổ giải thích vì sao niệm Phật có công đức thù thắng như thế? Năng niệm là giác tâm, sở niệm là quả Phật (vị Phật đã chứng quả), nhân quả tương ứng. Giác tâm chẳng mê là Thật Tướng, quả Phật cũng là Thật Tướng; vì thế, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Người niệm Phật lâm chung, kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác lâm chung niệm Phật mười niệm đều vãng sinh, từ A Tỳ địa ngục bèn thành Phật, vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới, tới thế giới Cực Lạc làm A Duy Việt Trí Bồ tát, đều là Thật Tướng.
“Di Đà Yếu Giải vân: Quang tắc hoành biến thập phương, thọ tắc thụ cùng tam tế. Hoành thụ giao triệt, giai Pháp Giới Thể. Cử thử thể tác Di Đà thân độ, diệc tức cử thử thể tác Di Đà danh hiệu. Thị cố Di Đà danh hiệu tức Chúng sinh Bổn Giác Lý tính. Trì danh tức Thỉ Giác hợp Bổn, Thỉ Bổn bất nhị, sinh Phật bất nhị. Cố nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật dã” (Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Quang theo chiều ngang trọn khắp mười phương, Thọ theo chiều dọc tột cùng ba đời. Ngang và dọc xen nhau thấu triệt, đều là Pháp Giới Thể. Nêu lên cái Thể ấy để làm thân và cõi nước của Phật Di Đà; mà cũng lấy cái Thể ấy tạo thành danh hiệu Di Đà. Vì thế, danh hiệu Di Đà chính là Bổn Giác Lý tính của Chúng sinh. Trì danh là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai. Chúng sinh và Phật chẳng hai. Vì thế, một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”).
Chuyện này Phật, Bồ tát, tổ sư đại đức đã giảng thấu triệt. Quang chiếu trọn mười phương, tượng trưng không gian. Thọ là quá khứ, hiện tại, tương lai, đại biểu thời gian; nay chúng ta gọi là “thời - không”.
“Hoành thụ giao triệt”, Hoành (chiều ngang) là không gian, Thụ (chiều dọc) là thời gian. Thời gian và không gian đều vô lượng, vô tận, chẳng có ngằn mé. Đấy là Pháp Giới Thể, đấy là công đức viên mãn trong tự tính; kinh Hoa Nghiêm nói đến Thể, Tướng, Dụng. Nêu lên cái Thể ấy để làm Di Đà thân, [thân ấy] tức là Pháp Tính thân, Tây Phương Tịnh Độ là Pháp Tính Độ, chẳng rời khỏi tự tính. Lấy cái Thể ấy làm danh hiệu Di Đà, tức là danh hiệu của Pháp Tính. Vì thế, danh hiệu này là Bổn Giác Lý tính của hết thảy chúng sinh, tức là đức hiệu của tự tính vốn sẵn trọn đủ. Dùng danh hiệu rất sâu này để kêu gọi tự tính của chúng ta quay trở về.
Trong Mật giáo có nói “tam mật tương ứng”, nhưng trong Tịnh Tông cũng phải nói tới tam mật tương ứng. Câu danh hiệu này chẳng khác gì mật chú trong Mật Tông, nó là tiếng Phạn. Phật A Di Đà là phiên âm. Nó là tự tính, vì thế, quý vị phải hiểu ý nghĩa này. A nghĩa là Vô, Di Đà nghĩa là Lượng, Phật nghĩa là Giác. Quý vị nghĩ tới Giác, nhất định sẽ nghĩ đến Giác - Chính - Tịnh. Chữ Giác trong tiêu đề kinh này là gì? “Chính” là bình đẳng, bình đẳng thì mới Chính; trước đó là Thanh Tịnh, Giác - Chính - Tịnh, Thanh Tịnh là Tịnh, Bình Đẳng là Chính, Giác.
Vô lượng giác, vô lượng bình đẳng, thanh tịnh, thời thời khắc khắc nhắc nhở chính mình, tự nhiên tất cả hết thảy ô nhiễm đều chẳng còn, quý vị trở về Giác - Chính - Tịnh, trở về Thanh Tịnh, Bình Đẳng bèn tịnh.
Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai. Chúng sinh và Phật chẳng hai; chúng sinh bèn thành Phật. Đó là “nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Tương ứng bằng cách nào? Từ chỗ này, chúng ta mới biết được tin tức. Đấy cũng là như chúng tôi thường nhắc nhở đồng học, tương ứng như thế nào? Niệm niệm tương ứng với “thanh tịnh, bình đẳng, giác”; nhân đã tương ứng, quả bèn tương ứng.
Nơi nhân là Thỉ Giác, là chúng sinh; nơi quả là Bổn Giác, là Phật. Nơi quả là gì? Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm là tương ứng. Có nhân, nhất định có quả. Do vậy, từ tiêu đề kinh này, quý vị nhìn vào nửa phần sau và nửa phần trước sẽ thấy: Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai, Chúng sinh và Phật chẳng hai. Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. Pháp môn thù thắng như vậy tìm đâu ra? Trừ Tịnh Tông ra, sẽ chẳng tìm được! Thù thắng, hy hữu, khó gặp khôn sánh! Vì vậy, chúng ta phải quý trọng, phải thật sự tu tập!
Ở đây, nhân tiện, tôi báo một tin cùng mọi người, tối nay, tôi đáp máy bay sang Úc, ngày mai là mồng Một sẽ tới nơi; mồng Một lên núi, chẳng thể giảng kinh. Ngày mốt là mồng Hai, chúng tôi sẽ bắt đầu giảng tiếp. Từ Internet, quý vị sẽ có thể thu được bài giảng. Tuy rời khỏi nơi đây hai mươi mấy ngày, nhưng chúng ta vẫn cùng nhau giảng kinh, học tập chẳng gián đoạn. Cảm ơn mọi người.
Bình luận bài viết