Xa rời tất cả nhiễm ô sẽ được tâm thanh tịnh. Điều này rất quan trọng, phải triệt để buông bỏ sự nhiễm ô. Chúng tôi thường nói, nói mấy chục năm rồi, buông bỏ tự tư, tự lợi, nói mấy chục năm rồi, có được mấy người thật sự buông bỏ? Buông bỏ danh văn, lợi dưỡng, nó không có thật! Những thứ này đều là phiền não, đều là chướng đạo, chẳng những chướng ngại sự chứng quả của quý vị, mà còn chướng ngại sự khai ngộ của quý vị nữa. Có những thứ này thì không thể khai ngộ, cửa ngộ bị đè bẹp rồi. Sự hưởng thụ ngũ dục, lục trần đều phải buông bỏ hết.
Nửa thế kỷ trước, cho rằng lạp tử cơ bản là nhỏ nhất, nhưng sau này phát hiện nó còn có thể phân ra được. Đạo Phật nói cực vi chi vi, nghĩa là không thể phân ra được nữa. Đây là cảnh giới tuyệt đối, không thể phân ra được nữa, đương nhiên nhục nhãn của chúng ta không thể thấy được. Trong một vật chất nhỏ như vậy, trong kinh gọi là nhất trần, trong nhất trần này còn có thế giới. Ngày nay, thấy khoa học công nghệ, một cái thẻ nhớ, chỉ nhỏ bằng móng tay thôi, trong đó dung chứa biết bao tài liệu. Chúng ta cảm thấy vô cùng kinh ngạc, nhưng không biết rằng trong một vi trần, dung chứa thông tin cả một vũ trụ này, trong đó có cả một vũ trụ, không tăng không giảm. Khoa học ngày nay gọi là thế giới vi mô. Lượng tử lực học, gọi đại vũ trụ là thế giới vĩ mô. Đạo Phật nói vĩ mô và vi mô là một chẳng phải hai.
Trong Khởi Tín Luận, Bồ tát Mã Minh dạy rằng: Nghe kinh không chấp ngôn thuyết, không nên chấp trước ngôn ngữ, không nên chấp trước danh tự, không nên suy nghĩ ý nghĩa của những danh từ thuật ngữ trong kinh. Nếu nghe được như vậy sẽ hiểu được, và nhập vào cảnh giới đó.
Đọc kinh cũng như vậy, văn tự trong kinh điển, văn tự là phù hiệu của ngôn ngữ, cho nên nghe kinh không được chấp trước ngôn ngữ, đọc kinh không được chấp trước văn tự. Chấp trước văn tự thì hỏng việc. Đồng thời cũng không được chấp trước danh từ thuật ngữ, không nên suy nghĩ ý nghĩa của nó. Vì sao không được suy nghĩ ý nghĩa của nó? Quý vị vừa nghĩ là sai rồi, nghĩ là ý của mình, chứ không phải ý của Phật. Vì sao? Phật không có ý. Pháp thân Bồ tát đã chuyển 8 thức thành 4 trí rồi. Ý nằm trong 8 thức. Thức thứ 6 là ý thức, thức thứ 7 là ý căn. Ý nằm trong 2 thức này.
Trước đây nói, tương dung tương tức, trùng trùng vô tận, đó là gì? Là tự tính! Trong kinh, đức Phật thường nói, tự tính “pháp nhĩ như thị” (pháp này vốn là như vậy). Không phải do con người làm, nên không phải sáng tạo ra, bởi Tính đức vốn là như vậy. Trong giáo pháp Đại thừa, đức Phật thường dùng một câu để miêu tả, gọi là bất khả tư nghị. Quý vị không thể suy nghĩ, chắc chắn suy nghĩ không tới, nếu quý vị suy nghĩ, càng nghĩ càng phức tạp. Vì sao? Vì nghĩ chính là thức thứ 6. Công năng của thức thứ 6 là năng biến, vạn pháp là sở biến, càng nghĩ nó biến hóa càng nhiều, cho nên không thể suy nghĩ.
Đạt được quả A La Hán không đơn giản, tiêu chuẩn trong kinh Kim Cương, người này thật sự đạt được vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Trong kinh Kim Cương nói rất rõ ràng. Đó là hạng người nào? Tu Đà Hoàn. Bậc Tu Đà Hoàn cũng đang chia sẻ với chúng ta. Họ chứng được quả Tu Đà Hoàn, nhưng không suy nghĩ rằng mình chứng được quả Tu Đà Hoàn. Vì sao? Bởi có suy nghĩ như vậy là chấp tướng. Chấp tướng là giả chẳng phải chân, không chứng được. Thật sự chứng được là không có dấu vết gì. Tâm địa thanh tịnh, không hề có dấu vết. Vì thế, bậc A La Hán đạt được điều gì? Đạt được tâm thanh tịnh. Trên đề kinh này nói “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”. Họ đã đạt được thanh tịnh.
Khoa học nói về năng lượng. Năng lượng chính là Nghiệp tướng. Nghiệp ở đây nghĩa là động. Nghiệp là tạo tác, cho nên nó có nghĩa là động. Cũng chính là hiện tượng ba động mà các nhà khoa học nói, ba động vô cùng vi tế. Các nhà khoa học thời cận đại rất hứng thú với vấn đề này. Đây là phát hiện mới.
Ba là gì? Là làn sóng ý niệm. Sức mạnh của ý niệm rất lớn. Ý niệm thật sự có thể làm thay đổi vũ trụ. Vũ trụ còn thay đổi được huống là sinh lý của chúng ta. Thân thể, sinh lý đều có thể thay đổi. Thay đổi được là ý niệm. Các nhà khoa học gọi ý niệm là tin tức. Ở chỗ A Lại Da gọi là Chuyển tướng. Chuyển tướng cũng có nghĩa là kiến phần.
Khoa học ngày nay nói đến lượng tử. Lượng tử gọi là lượng tử quần, không phải đơn độc mà là lượng tử quần, do nhiều tiểu quang tử hợp thành. Đây có phải là một vi trần trong kinh điển Đại thừa, đức Phật thường nói chăng? Rất khó nói. Nếu khoa học tiến bộ hơn nữa, phát hiện ra lượng tử cũng do nhiều yếu tố nhỏ hợp thành, thì lượng tử quần cũng không phải là vật nhỏ nhất rồi. Hiện tượng này là nhỏ nhất. Một hạt vi trần nhỏ nhất đó, lại có thể hàm dung khắp pháp giới hư không giới. Đại thế giới này ở trong một hạt vi trần, tuyệt đối không phải hạt cải chứa núi Tu Di.
Chúng ta đến thế gian này bằng cách nào? Do nghiệp báo mà đến. Ngày xưa, tạo thiện nghiệp. Thiện nghiệp gặp duyên quả báo hiện tiền, đầu thai về cõi Người. Điều này trong kinh giáo nói rất rõ. Tạo nghiệp gì? Trung phẩm thiện nghiệp, Ngũ Giới hoặc Ngũ Thường của đạo Nho đều được cả, đều thông hết. Ngũ Thường: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đời trước nghiêm chỉnh học tập, thực hành giỏi, đó chính là nghiệp nhân thọ thân người trong lục đạo. Mỗi chúng ta được thân người, tương đồng với nghiệp nhân quá khứ. Y lý mà nói, mỗi đời, mỗi đời, hướng thượng nâng cao mới được. Đây mới là chính lý. Cũng là điều người xưa nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”.
1. Chuyện Phật kể mũi tên thứ hai | HT. Thích Thiện Đạo - 2. Trải lòng từ bi | HT Thích Giác Toàn - 3. Về Huế thăm chùa | Đỗ Hồng Ngọc - 4. Lục độ vạn hạnh | Thích Quảng Ninh - 5. Hoa nở vườn thơ | Lâm Băng Phương - 6. Rằm tháng Mười, nghĩ về “tứ trọng ân” | Vu Gia - 7. Vài cảm nhận về sự sống đạo trên hành trình vô ngã | Minh Quang - 8. Kẻ điên rồ và người sá0ng suốt trong kinh điển Phật giáo | Hoang Phong - 9. Nghĩ về thân giáo | Nguyên Cẩn - 10. Trọ đời | Mộc Yên Tử ...
Đạo Phật ở Ấn Độ thời cổ đại, bất luận là học thuật hay tôn giáo, họ đều học thiền định. Thiền định là gì? Thiền định chính là buông bỏ tạp niệm, để tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí tuệ, cho nên nó có thể đột phá không gian duy thứ, nó có thể nhìn thấy cảnh giới mà nhục nhãn thông thường không thấy, là cảnh giới trong định. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong định giảng kinh Hoa Nghiêm. Phàm phu chúng ta nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni tọa thiền dưới cội Bồ đề. Ngài nhập định, nhập định 21 ngày. Sự việc này rất bình thường, chúng ta đều có thể chấp nhận được. Vì sao vậy? Một số vị cao tăng thời cận đại, khi họ nhập định, họ có thể nhập định một tháng mới xuất định.
Sự khác biệt giữa giác và mê ở chỗ nào? Khi giác rồi không chấp trước; chẳng những không chấp trước mà cũng không phân biệt; chẳng những không phân biệt, mà đối với tất cả pháp không khởi tâm không động niệm. Đó là giác, cho nên được sự lợi ích vô ngại, tự tại vô ngại. Khi mê cùng sắc, cùng tâm, cùng nhất, cùng đa đều không được tự tại, nơi nơi đều chướng ngại. Chướng ngại từ đâu mà có? Chướng ngại từ mê mà có, từ bất giác mà có. Chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật này.
Con người thật sự giác ngộ rồi, thì lục đạo không còn nữa. Tuy lục đạo không có, nhưng vẫn còn rất nhiều chúng sinh mê trong lục đạo. Chư Phật, Bồ tát có cần giúp họ không? Cần! Thời thời khắc khắc giúp họ. Vì sao vậy? Bởi pháp giới là một thể. 3 đường lành, 3 đường dữ cũng không rời pháp giới. Nếu chúng ta xem pháp giới là thân mình, mười pháp giới chỉ là những khí quản trong cơ thể của mình mà thôi. Có những khí quản bị bệnh, ta có cần quan tâm đến nó không? Có cần chữa trị cho nó không? Chắc chắn phải quan tâm rồi.